Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Tôn Giáo Của Tự Do

01/01/201108:55(Xem: 7055)
16. Tôn Giáo Của Tự Do

TÔN GIÁO CỦA TỰ DO

Ðây là một tôn giáo tự do và lý trí 
khiến con người sống cuộc đời thánh thiện.

Phật giáo không ngăn cản bất kỳ ai học hỏi giáo lý của những tôn giáo khác. Trên thực tế, Ðức Phật khích lệ chư đệ tử Ngài nên học hỏi giáo lý của những tôn giáo khác và đem so sánh lời dạy của Ngài với những tôn giáo khác. Ðức Phật nói rằng nếu những giáo lý ấy mang bản chất lý trí và thích hợp với họ thì các vị đệ tử ngài có quyền tự do tôn trọng những lời dạy như thế. Dường như có một số nhà lãnh đạo tôn giáo cố tìm mọi cách để kìm giữ tín đồ của mình trong bóng tối, có một số trong các vị lãnh đạo đó thậm chí không cho phép tín đồ của họ đụng chạm đến những biểu tượng hoặc kinh sách của những tôn giáo khác. Họ được hướng dẫn không nên lắng nghe những lời thuyết giảng của những tôn giáo khác. Họ bị ngăn cấm không được nghi ngờ về giáo lý của tôn giáo họ, cho dù họ không tin tưởng những giáo lý ấy thế nào đi nữa. Họ càng kìm giữ thái độ thiển cận của tín đồ của họ, thì họ càng dễ dàng kiểm soát những tín đồ ấy. Nếu một ai trong số họ muốn thực hiện sự tự do tư tưởng và nhận ra rằng anh ta luôn luôn bị nhốt trong ngục tối của tri thức nhân loại thì lúc đó người ta viện lẽ là quỷ thần đã cướp đi tâm trí của anh ta. Những người nghèo không được tạo cơ hội để sử dụng khả năng lý trí thông thường, sự giáo dục và khả năng thông minh của anh ta. Những người nào muốn ước ao thay đổi những cách nhìn về tôn giáo thì được dạy phải tin rằng họ không đủ hoàn hảo để được phép sử dụng sự tự do ý chí để tự thân phán xét vấn đề. 

Theo Ðức Phật tôn giáo phải do con người tự do chon lựa. Tôn giáo không phải là một bộ luật, nhưng đó là quy tắc, hệ thống giới luật mà con người tuân theo nó với tinh thần hiều biết. Ðối với người Phật tử chân chánh, những quy tắc tôn giáo không phải là quy luật của thien đường, cũng không phải là quy luật của con người mà đó là một quy luật của tự nhiên. Trên tình hình thực tế hiện nay, hầu hết mọi nơi trên thế giới không có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo thực sự. Con người không có quyền tự do suy nghĩ. Bất cứ khi nào anh ta nhận ra rằng anh ta không thể tìm thấy sự thoả mãn trong tôn giáo mà anh ta đang tôn thờ, thì lúc đó anh ta không thể tìm ra những giải pháp thoả mãn cho những vấn đề trong cuộc sống và anh ta không có quyền tự do từ bỏ tôn giáo đó và chấp nhận một tôn giáo mới thu hút anh ta. Lý do là thẩm quyền tôn giáo, những nhà lãnh đạo tôn giáo và những thành viên trong gia đình đã tước đi cái quyền tự do ấy của anh ta. Nhân loại phải được trao quyền tự do chọn lựa tín ngưỡng phù hợp với niềm tin của họ. Không một ai có quyền ép buộc người khác chấp nhận một tín ngưỡng riêng biệt nào. Có một số người từ bỏ tôn giáo của họ vì vấn đề tình yêu, để được thoả mãn nhu cầu yêu đương đối tượng mà họ đang theo đuổi, chính vì thế họ không hiểu đúng đắn tín ngưỡng của người bạn đời của mình. Tín ngưỡng không nên được thay đổi nhằm thích ứng những nhu cầu tình cảm của con người và yếu điểm của nhân loại. Người ta nên suy nghĩ thận trọng trước khi thay đổi tín ngưỡng. Tín ngưỡng không phải là một vấn đề để phục vụ cho việc giao kèo mua bán; con người không nên thay đổi tín ngưỡng vì những lợi nhuận vật chất cho cá nhân. Tín ngưỡng tôn giáo là nhằm phục vụ cho nhu cầu tu tập, tiến bộ về tâm linh và tự giải thoát bản thân.

Người Phật tử không bao giờ tạo ảnh hưởng những tín đồ tôn giáo khác và không bao giờ đi theo tôn giáo của họ để hưởng được những nhu cầu vật chất. Người Phật tử cũng không bao giờ lợi dụng, khai thác sự nghèo khó, bệnh hoạn, mù chữ và không hiểu biết để mà truyền bá đạo làm gia tăng sô lượng tín đồ của tôn giáo mình. Ðức Phật khuyên những ai muốn theo Ngài tu học không nên hấp tấp vội vã trong việc chấp nhận giáo lý của Ngài. Ngài khuyên họ nên xem xét kỹ giáo lý của Ngài và tự bản thân quyết định liệu giáo lý của Ngài có thiết thực và lợi ích hay không và có thích hợp để cho họ đi theo hay không.

Phật giáo dạy rằng chỉ bằng niềm tin suông thôi hoặc là những hình thức lễ nghi bên ngoài thì không đủ để đạt được trí tuệ và sự hoàn thiện, giải thoát. Xét theo ý nghĩa này, thì sự thay đổi tín ngưỡng bên ngoài trở nên vô nghĩa. Ðể thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo bằng sự ép buộc, sẽ đồng nghĩa với việc ngăn cản sự truyền bá chân lý công bằng và tình thương bằng những phương tiện ép buộc và phi công bằng. Ðối với đệ tử của Ðức Phật một cái tên gọi không quan trọng cho dù anh ta tự gọi mình là một Phật tử hoặc không phải cũng không ảnh hưởng gì đến sự giải thoát của anh ta. Người Phật tử biết rằng chỉ bằng sự hiểu biết và những nỗ lực của con người thì họ sẽ tiến gần hơn đến mục tiêu do Ðức Phật thuyết giảng.

Trong số tín đồ của nhiều tôn giáo trên thế giới hiện nay, có một số tín đồ rất cuồng tín. Sự cuồng tín trong tôn giáo vô cùng nguy hiểm. Một tín đồ cuồng tín không thể kiểm soát chính bản thân mình, không được lý trí hoặc là những nguyên lý khoa học quan sát và phân tích dẫn dắt. Theo Ðức Phật, người Phật tử phải là con người tự do với một tâm hồn cởi mở, khoan dung và không nên chịu quỵ luỵ đối với bất cứ ai để cầu khẩn cho sự phát triển tâm linh của mình. Người Phật tử quy y Phật, nương tựa nơi Ngài bằng cách chấp nhận Ngài như là một động lực, nguồn gợi cảm khích lệ trong quá trình tu tập. Người Phật tử nương tựa nơi Ðức Phật không phải bằng niềm tin mù quáng mà là bằng một sự hiểu biết. Ðối với người Phật tử, Ðức Phật, bậc Thầy của họ không phải là một đấng cứu thế hoặc Ngài cũng không phải là một chúng sanh phỏng nhân hình người tuyên bố có khả năng rửa sạch tất cả những tội lỗi của những người khác. Người Phật tử xem Ðức Phật như là một Bậc Thầy chỉ cho họ con đường đưa đến sự giải thoát, giác ngộ.

Ðạo Phật luôn luôn ủng hộ tinh thần tự do và tiến bộ của nhân loại. Phật giáo luôn biểu trưng cho sự tiến bộ tri thức và quyền tự do nhân loại trong mọi phương diện của cuộc sống. Không có điều gì trong giáo lý Ðức Phật phải chịu rút lui trong bộ mặt của những phát minh và tri thức khoa học hiện đại. Các khoa học gia ngày càng khám phá ra nhiều điều mới mẻ, thì họ càng tiến lại gần Ðức Phật hơn.

Ðức Phật giải thoát con người khỏi sự trói buộc của tôn giáo. Ngài cũng giải phóng con người khỏi tình trạng độc quyền và chuyên chế bạo ngược của giới tu sĩ. Chính Ðức Phật là người đầu tiên khuyên con người nên thực hiện khả năng lý trí của mình và không cho phép bản thân anh ta phải phục tùng một cách ngoan ngoãn giống như loài gia súc câm điếc, đi theo tín điều tôn giáo. Ðức Phật tượng trưng cho lý trí, dân chủ, tinh thần thiết thực và mẫu người đạo đức trong tôn giáo. Ngài giới thiệu tôn giáo của Ngài cho nhân loại tu tập bằng chân giá trị của con người.

Chư đệ tử Phật được Ngài khuyên không nên tin tưởng vào những gì mà không xem xét chúng một cách đúng đắn. Trong Kinh Kalama, Ðức Phật đưa ra những lời khuyên nhủ sau đây cho một nhóm thanh niên Kalama:

Ðừng chấp nhận điều gì được căn cứ trên cơ sở chỉ nghe tường thuật lại, hoặc là truyền thống, hoặc là tin đồn.

Ðừng chấp nhận điều gì căn cứ trên uy quyền của kinh điển, hợp với lý trí hoặc là những lời tranh luận.

Ðừng chấp nhận điều gì căn cứ trên cơ sở suy luận, ước đoán như vậy.

Ðừng chấp nhận điều gì dường như là có lý.

Ðừng chấp nhận điều gì từ ý kiến tư biện của một ai đó, dường như là khả năng của người khác. Hoặc là xem xét: “Ðây là bậc đạo sư của chúng ta”.

Nhưng khi quý vị biết do chính mình những điều chắc chắn này là bất thiện và xấu xa, có khuynh hướng đưa đến hại mình và hại người, thì hãy từ chối chúng.

Và khi nào chư vị biết do chính mình những điều này là thiện và tốt: đưa đến sự lợi ích về mặt tâm linh cho chính chư vị cũng như cho những người khác, thì hãy chấp nhận và thực hành chúng”.

Người Phật tử được khuyên nên chấp nhận những giáo lý nào chỉ sau khi xem xét, quan sát và phân tích kỹ lưỡng và chỉ sau khi chắc chắn rằng phương pháp đó thích hợp với lý trí và đưa đến sự lợi ích cho bản thân và cho tất cả.

Người Phật tử chân chánh không lệ thuộc vào những thế lực bên ngoài để tìm cầu sự giải thoát tự thân. Anh ta cũng không hy vọng có thể đoạn trừ những khổ đau trong cuộc sống thông qua sự can thiệp của một đấng siêu hình nào từ bên ngoài. Người Phật tử phải cố gắng bằng tất cả nỗ lực của chính bản thân mình nhằm tẩy sạch tất cả những nhiễm ô, cấu uế trong tâm mình để tìm được niềm hạnh phúc, an lạc vĩnh cửu. Ðức Phật dạy: “Nếu có một ai đó nói xấu ta, giáo pháp của ta và chư đệ tử ta, thì không nen bày tỏ thái độ buồn bã hoặc là chán nản, bởi vì sự phản ứng như thế sẽ chỉ làm tác hại đến bản thân các vị mà thôi. Ngược lại, nếu có một ai đó nói tốt về ta, giáo pháp của ta và chư đệ tử ta, thì đừng quá vội hân hoan, vui mừng hoặc là thích thú bởi vì như thế sẽ chỉ làm chướng ngại cho việc phán xét một cách chính xác. Nếu chư vị hân hoan, vui mừng thì chư vị không thể phán xét liệu những phẩm chất được người khác tán thán là thực và thực sự được tìm thấy trong chính nơi ta”. Ðó là thái độ không thành kiến, thiên vị của một người Phật tử chân chánh.

Ðức Phật đã nâng cao mức độ tự do cao nhất không chỉ ở nơi bản chất con người mà còn ở nơi những phẩm chất thiên tính. Ðó chính là quyền tự do không tước đoạt chân giá trị của con người. Ðó là sự tự do giải thoát con người khỏi sự nô lệ của những giáo điều và những quy luật tôn giáo độc tài hoặc là sự trừng phạt trong tôn giáo.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2021(Xem: 3953)
Tôi bắt đầu vào Đại học để học Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, trên đường theo học các lớp giáo lý sau này. Tại Đại học Ohio Hoa Kỳ, tôi tham gia lớp học về các tôn giáo thế giới từ tác giả, triết gia nổi tiếng, giáo sư triết học thâm niên tại Đại học Bang Ohio, Giáo sư Troy Organ, một Cơ Đốc nhân thực hành, người tự hào về việc giảng dạy mỗi tôn giáo từ quan điểm của một người tín ngưỡng.
17/11/2021(Xem: 25295)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21204)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13373)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 14913)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15062)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17735)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 16731)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21066)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14584)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]