Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Những Bằng Chứng Lịch Sử Về Đức Phật

01/01/201108:40(Xem: 7670)
04. Những Bằng Chứng Lịch Sử Về Đức Phật

NHỮNG BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ VỀ ÐỨC PHẬT

Ðức Phật là người chinh phục vĩ đại nhất mà thế giới đã từng chứng kiến. Giáo lý của Ngài tỏa sáng con đường hướng dẫn nhân loại vượt qua từ một thế giới đen tối, vô minh, hận thù và khổ đau sang một thế giới của ánh sáng, tình thương và hạnh phúc.

Ðức Phật Cồ Ðàm không phải là một nhân vật huyền thoại mà là một nhân vật có thực trong lịch sử nhân loại, người đã khai sáng một tôn giáo mà chúng ta biết đến ngày nay-Phật giáo. Những bằng chứng để chứng minh sự hiện hữu của bậc đạo sư vĩ đại này được tìm thấy trong những sự kiện sau đây:

1. Những bằng chứng về những người biết đến đích thân Ngài. Những bằng chứng này được khắc ghi trong những bia ký bằng đá, những trụ đá và những tháp được dựng lên để tôn kính Ngài và tưởng nhó Ngài. Những bằng chứng và những khu tưởng niệm này để tưởng nhớ Ngài được tạo dựng bởi các bậc vua chúa và một số người khác rất gần thời đại của Ngài để mà họ có thể kiểm chứng câu chuyện về cuộc đời của Ngài.

2. Việc khám phá những nơi thánh tích và những di sản về đền đài được đề cập đến trong những chuyện kể về thời đại của Ngài.

3. Tăng già, đoàn thể thánh thiện mà Ngài đã thành lập, vẫn được duy trì không bị gián đoạn cho đến ngày nay. Tăng đoàn có những sự kiện về cuộc đời Ngài và những lời dạy của Ngài đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại hầu hết mọi vùng trên khắp thế giới.

4. Sự kiện rằng chính vào năm Ngài nhập Niết-bàn và những thời kỳ sau này, những cuộc đại hội và kết tập kinh điển của Tăng già được tổ chức nhằm mục đích xác chứng giáo lý thực sự của bậc đạo sư sáng lập. Những cuộc kết tập và đại hội này chứng minh rằng giáo lý của Ngài đã được truyền từ người thầy sang cho chư vị đệ tử Ngài từ thời đại của Ngài cho đến ngày nay.

5. Sau khi Ngài nhập diệt, nhục thân của Ngài được trà tỳ và những viên xá lợi được phân chia cho tám vương quốc tại Ấn Ðộ đương thời. Mỗi vị quốc vương xây một ngọn tháp để tôn thờ phần xá lợi được phân chia. Phần xá lợi được chia cho vua Ajata Satthu được nhà vua tôn thờ trong một ngôi bảo tháp tại Rajagriha. Gần 2 thế kỷ sau này, hoàng đế A dục đem những viên xá lợi này và phân chia khắp cả nước. Những bia ký được tôn thờ trong này và những bảo tháp khác khẳng định rằng đây là những viên xá lợi của Ðức Phật Cồ Ðàm.

6. Bộ “Mahavansa”, một bộ sách đáng tin cậy nhất và cổ xưa nhất trong lịch sử mà chúng ta biết đến ngày nay cung cấp cho chúng ta những sự kiện chi tiết về cuộc đời cũng như những chi tiết về cuộc đời của đại đế A dục và tất cả những triều đại khác liên quan đến lịch sử Phật giáo. Lịch sử Ấn Ðộ cũng dành những trang sử vàng son viết về cuộc đời, sự hoằng hoá, sự phục vụ của Ðức Phật và những phong tục văn hoá truyền thống Phật giáo.

7. Vài trăm năm sau khi Ðức Phật nhập diệt, chúng ta có thể tìm thấy những bằng chứng, sử sách được ghi nhận ở những quốc gia Phật giáo như Tích Lan, Việt Nam, Miến Ðiện, Trung Quốc, Tây Tạng, Nepal, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia và Lào đã chứng tỏ những bằng chứng nguyên vẹn về mặt văn hoá, lịch sử, tôn giáo, văn chương, và truyền thống phong tụầm không có một Bậc đạo sư nào tại Ấn Ðộ được mọi người biết đến như Ðức Phật Cồ Ðàm.

8. Tam Tạng Thánh điển, một bộ sưu tập những lời dạy trong 45 năm thuyết giảng của Ngài đủ để chứng minh rằng Ðức Phật là một nhân vật lịch sử đã thật sự hiện hữu trên cõi đời này.

9. Tính chính xác và thiết thực của hệ thống Kinh điển Phật giáo được hỗ trợ bằng sự kiện rằng những nguồn tư liệu từ hệ thống kinh điển này cung cấp những thông tin cho những nhà sử học Ấn Ðộ viết về lịch sử Ấn Ðộ trong giai đoạn lịch sử thế kỷ thứ 5 và 6 trước Tây lịch. Những bản kinh điển, tiêu biểu là những bản kinh được viết tại Ấn Ðộ vào thời kỳ sớm nhất có độ tin cậy cao, cung cấp một nguồn tri thức thâm uyên cho những điều kiện và môi trường xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị trong suốt cuộc đời hành đạo của Ðức Phật cũng như cuộc đời của những vị vua đương thời với Ngài như vua Bình Sa (Bimbisara).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2019(Xem: 27591)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 29441)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 26792)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 15827)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
29/08/2019(Xem: 12475)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 12587)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 13671)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 19214)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 15192)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 7592)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]