Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo đức và xã hội

16/11/201016:07(Xem: 10700)
Đạo đức và xã hội

 

 

ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI

 

Một phương diện quan trọng khác của Phật Giáo như một tôn giáo của thế giới là quan điểm về những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị. Một số người không am tường thường cho rằng Phật Giáo muốn đào thoát hay rút lui khỏi cuộc sống thực tại, ẩn náu trong một ngôi chùa, trong một hang động hay trong rừng và sống một cuộc đời biệt lập khỏi xã hội. Đó chỉ là sự thiếu hiểu biết mà thôi, chính ngay Đức Phật, Ngài là một người làm việc tích cực nhất chưa từng thấy trên thế giới. Mỗi đêm Ngài chỉ ngủ có hai tiếng rưỡi, và Ngài làm việc suốt thời gian còn lại. Ngài đi bộ ngang dọc khắp Ấn Độ, nói chuyện và dạy bảo dân chúng. Không phải lúc nào Ngài cũng chỉ nói đến Niết Bàn với tất cả mọi người Ngài gặp. Ngài nói về đời sống của họ. Đức Phật nói, Ngài không kỳ vọng người mới vào đạo có thể thi hành ngay được Chân Lý cao thượng nhất. Theo Ngài thì phải tuần tự vi tiến. Cho nên giúp đỡ bằng nhiều cách, phù hợp trình độ và mức tiến triển, là một phần của tôn giáo này. Một cuộc sống xã hội, kinh tế và chính trị tích cực không thể tách xa cuộc sống đạo lý thực sự.

Trong tôn giáo của Đức Phật, ta thấy một hệ thống đạo đức toàn diện và một lý thuyết siêu hình siêu việt bao gồm một tâm lý cao thượng. Nó thích hợp với mọi tầng lớp. Với những người bình dị,nó cung cấp một qui tắc luân lý, một sự thờ phượng đẹp đẽ, một niềm hy vọng cuộc sống tại thiên đường. Với những người nhiệt tình sùng đạo, nó là một hệ thống tư tưởng trong sạch, một triết lý cao thượng, và những lời giáo huấn về đạo đức đưa đến giác ngộ, giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng giáo lý căn bản vẫn là sự thanh tịnh hoá con người. Sự tiến bộ về tinh thần không thể có được nơi người không có cuộc sống trong sạch và từ bi.

Trong hình thức thực hành phổ thông cho đại chúng vời những lễ nghi, diễu hành, và các hội liên hoan hoà nhập các tập tục truyền thống, Phật Giáo tạo một động cơ thúc đẩy rộng lớn, kinh nghiệm và thực tế cho nền giáo dục. Những hoạt động trong gia đình, các cuộc lễ trong xóm làng, hoạt động văn hoá và các dịp như sanh, tử, cưới xin, tưởng niệm là những lúc giáo lý được sử dụng bán chính thức để dạy con người. Các em nhỏ học hỏi được nhiều về tập quán, phong tục, giá trị và cả đến những nguyện vọng qua quan sát hay tham dự vào những hoạt động giáo dục bán chính thức này. Thanh niên và các người đứng tuổi cũng được hưởng lợi ích từ các hoạt động này.

Ngoài trình độ cá nhân và sự giải phóng con người, Phật Giáo công nhận gia đình là một đơn vị của xã hội và quốc gia. Cho nên từ một người nội trợ tầm thường mà mục đích tối thượng là đạt được vật chất đầy đủ nơi cuộc đời hiện tại và về với cảnh trời sau này, Phật Giáo cung cấp một qui tắc giáo lý đơn giản -nói trong kinh Sigalovada (Thi-Ca-La-Việt)- sự thực hành làm vững mạnh sự đoàn kết trong cộng đồng. Qui tắc giáo lý này bảo đảm sự liên hệ chính đáng giữa người trong gia đình, giữa chủ nhân và người làm công.

Trong một bài thuyết giảng, Đức Phật đề ra 10 điều khuyên răn dạy ta phải kính trọng và chu toàn bổn phận trách nhiệm đối với cha me., con cái, chồng vợ, những người liên hệ trong gia đình, những bậc cao niên, những người đã chết, thánh thần và để sống hoà hợp trong xã hội không phương hại đến quần chúng và tiến bộ với một cuộc sống không tội lỗi.

Giáo lý trên đem hạnh phúc cho mọi người trong xã hội vì mục đích là đem lại sự thực hành chuyên cần, những hành động thân hữu, đặc điểm của con người thật sự vị tha.

Mặt khác người tiến bộ hiểu được các chướng ngại của cuộc sống gia đình (con đường hoen ố của dục vọng ) có thể lựa chọn qui tắc giáo lý và đạo đức cao hơn đề cập trong Giới Luật Vinaya (Luật Tạng). Những phẩm hạnh này giúp cho người đó sống đời thanh tịnh, thánh thiện, từ bỏ mọi xiềng xích của các dục lạc trần tục.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 5311)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 6969)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 6241)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 58459)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6833)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 5197)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3862)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 6433)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8160)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5822)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]