Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền thông hiện đại và đạo Phật: một cái nhìn khác

25/01/201211:52(Xem: 4070)
Truyền thông hiện đại và đạo Phật: một cái nhìn khác
communication_1

Sau một loạt bài khẳng định vai trò của truyền thông hiện đạiđối với hoạt động hoằng pháp của Phật giáo, người viết thấy cần thiết phải có bài viết này, để mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ và toàn diện đối với truyền thông hiện đại.

Thế mạnh của truyền thông hiện đại đã và đang tiếp tục được làm rõ. Việc khai thác truyền thông là hết sức cần thiết.

Nhưng khi khai thác truyền thông phải luôn chú ý đến những vấn đề “mặt trái” của nó. Tác động của “mặt trái” này không chỉ đối với riêng chỉ đạo Phật, như trọng tâm của bài viết này, mà nó bao trùm lên toàn xã hộihiện đại.


Học giả người Nga Mikhail Epstein, khi nghiên cứu về hậu hiện đại ở Nga,đã đặc biệt chú ý đến tính “phì đại” (hyper) trong văn hóa thế kỷ XX nói chung. Tính phì đại này được ghi nhận như là từ một trong nhiều nguyên nhân, trong đó truyền thông đại chúng là một.


Đây là điểm chúng ta cần chú ý đúng mức khi tìm hiểu và khai thác truyền thông hiện đại.


Theo Mikhail Epstein, “phì đại”, theo cách dịch của Đào Tuấn Ảnh thuật ngữ “hyper”, có nghĩa chỉ sự “khuếch đại”, “tăng cường”, “thái quá”. Ôngcho rằng việc cần sử dụng tiền tố này là vì “dựa vào chỗ có khá nhiều phẩm chất của thực tại thế kỷ XX đã được đẩy tới ngưỡng tận cùng của sự phát triển, làm bộc lộ sự đối lập với chính nó”.


Để làm rõ nhận định có vẻ khó hiểu này, Mikhail Epstein đã dẫn Umberto Eco và Jean Baudrillard: “Trong ý nghĩa này khái niệm “thực tại phì đại”do nhà ký hiệu học Ý Umberto Eco và nhà triết học Pháp Jean Baudrillardđưa ra năm 1976, chỉ sự biến mất của thực tại do sự thống trị của các phương tiện thông tin đại chúng. Dường như những phương tiện đó nỗ lực in dấu ấn của thực tại tới mọi chi tiết nhỏ nhặt nhất, song chính với mức độ xâm nhập như vậy bản thân những phương tiện kỹ thuật ảo thị đã tạo ra một phẩm chất mới cho thực tại, cái gọi là “hyper”. Thực tại phì đại chính là ảo tưởng được tạo bởi những phương tiện thông tin đại chúngvà thực tại này còn có vẻ xác thực, chính xác, và “thực” hơn cái thực tại mà chúng ta tiếp nhận ở cuộc sống xung quanh”.


Mikhail Epstein đã dẫn lại Jean Baudrillard, rằng “thực tại biến mất trong thế giới phương Tây, cái thế giới bị gói chặt trong mạng lưới thông tin đại chúng, dần trở nên phì đại một cách giả tạo. Hiện thực tự đi xuống tận đáy trong chủ nghĩa hiện thực phì đại vốn tái tạo kỹ lưỡng cái thực tại thường là gián tiếp thông qua những phương tiện sao lại, như ảnh chụp. Từ phương tiện tái tạo này tới phương tiện tái tạo khác, thực tại biến mất dần, trở nên giống như cái chết. Song trong một ý nghĩnào đó, nó đồng thời lại được khuếch đại lên ngay trong bản thân sự tànphá của mình. Nó trở thành một thực tại vì bản thân, thành bái vật của khách thể đã mất, không còn là khách thể mô tả, mà là sự phấn hứng cao độ trong việc loại bỏ và hành động tự hủy diệt mang tính lễ nghi: phì đại thực tại”.


Đi vào cụ thể, Mikhail Epstein tiếp tục trích dẫn: “Về sự xuất hiện của hiện tượng thực tại phì đại này, trong lĩnh vực văn hóa, bốn mươi năm trước Baudrillard đã viết: Từ phương tái tạo này tới phương tái tạo khác, thực tại dần dần biến mất… Hơn nữa, điều muốn nói tới ở đây lại là những phương tiện tái hiện chính xác, tinh tế, mang màu sắc xúc cảm, nhưchụp ảnh và vô tuyến truyền hình. Phương pháp quan trắc và tái hiện càng chân thật bao nhiêu, bản thân phạm trù sự thật càng trở nên đáng ngờ bấy nhiêu, bởi đối tượng được tái hiện lại một cách đầy đủ và chính xác đã thôi không còn khác gì dấu vết và hình hài thật của nó”.


Truyền thông hiện đại, được các học giả hiện đại nhìn nhận như vậy, đi kèm với từ đánh giá là phì đại, qua những phân tích ở trên, quả là có cơsở của nó.


Sự phát triển quá mức, đến nỗi được gọi là “phì đại” của truyền thông hiện đại, đã tạo nên một thực tại ảo, mà có khi hoàn toàn trái ngược lạivới thực tại thật. Nói thẳng ra, sự phì đại của truyền thông hiện đại có thể tạo nên một sự lừa dối, có thể là ngoài ý muốn, có thể là do chính ý muốn chủ quan của người thực hiện hoạt động truyền thông.


Ví dụ cho việc này là vô số, ở đây, chỉ xin lấy trường hợp nhiều “ca sĩ”chỉ có thể hát trên dĩa thu, trên chương trình video, mà không thể hát trực tiếp với người trực tiếp nghe không micro, mixer, ampli…, và thậm chí có những thứ đó cũng không hát được.


Media, các phương tiện điện tử… đã tạo ra một thế giới khác, mà trong đó người ta có thể đóng giả.


Đạo Phật là đạo của sự thật, của xác tín. Một hiện thực ảo do truyền thông mang lại khác với hiện thực thật là điều những người tu Phật phải lưu tâm.


Nếu chỉ căn cứ vào hiện thực của truyền thông “phì đại”, chắc chắc khôngphải là điều tốt. Trong đạo Phật có khái niệm “thân giáo”.


Thân giáo là tu học bằng tiếp xúc trực tiếp, trên hiện thực “thật”, trong từng phút giây.


Thân giáo đối lập với truyền thông “phì đại” của thế kỷ XX – XXI.


Nếu chúng ta theo học một vị thầy, mà chỉ qua băng dĩa giảng, qua hình ảnh tiếng nói trên CD, VCD, thì đó chỉ là tu học trên hiện thực ảo của truyền thông “phì đại”. Hoàn cảnh có thể buộc chúng ta phải tu học như vậy, nhưng không nên phụ thuộc hoàn toàn vào nó, bỏ qua hiện thực thật.


Lời giảng vị sư trong băng có thể rất hay, sách của vị sư đó viết rất thâm sâu, hoàn toàn đúng với chánh pháp, hình tượng của vị sư đó qua ốngkính camera được ghi lại trên dĩa VCD, DVD rất oai nghi. Đó là hiện thực thông qua truyền thông “phì đại”. Hiện thực đó đã qua một quá trìnhchọn lọc chủ quan, hoặc thậm chí có thể dàn dựng.


Có thể vị sư đó ở bên ngoài, được nhìn nhận qua sự tiếp xúc gần gũi liêntục, có thể hoàn toàn khác, hay ít hơn, có khoảng cách so với hình ảnh qua truyền thông hiện đại.


Có thể thuyết pháp, cử hành nghi thức thông qua phương tiện truyền thônghiện đại. Nhưng giáo hóa bằng “hạnh”, thì phương tiện truyền thông không làm được, thậm chí, tính chất phì đại của nó cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, lại có tác dụng ngược lại.


Công chúng truyền thông, tức là tất cả chúng ta nói chung, và Phật tử nói riêng, nên nhìn nhận truyền thông hiện đại một cách rõ ràng ở điểm này, nó “phì đại” theo cách nói của những nhà triết học.


Không hiếm khi chúng ta nghe những lời phê bình chính khách này đắc cử tổng thống, tổ chức kia chiếm nhiều ghế trong nghị viện đều do khéo léo sử dụng phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình, thay vì thực tài.


Xu hướng chỉ chạy theo truyền thông, theo quán tính chung, cũng không hiếm trong đạo Phật, cũng như các tôn giáo.

Điều này nếu do điều kiện khách quan như Phật tử nước ngoài chỉ biết đến những vị thầy trong nước qua băng dĩa giảng pháp và ngược lại, đã làmột điều rõ ràng cần ý thức là chuyện chẳng đặng đừng. Còn nếu do chủ quan thì thật không nên.

Hiện nay có vị tự xưng mình là Vô thượng sư, supreme master, maha kuru trên TV, quảng bá hình ảnh qua sóng vệ tinh, thu nhận đệ tử qua web đượcnhiều người tin tưởng… là đang khai thác mặt trái của sự “phì đại”.


Nếu mọi người chúng ta không ý thức được điều này, thì e rằng, người ta quên đi mọi thứ khác và chỉ nhìn nhận mọi việc qua truyền thông. Pháp sưđạo cao đức trọng, Vô thượng sư cứu nhân độ thế được xác định qua truyền hình, video, CD, cassette… sẽ đưa đến những hậu quả không lường.


Vì vậy, truyền thông cần được xác định rõ sự hạn chế của nó, và do sự hạn chế đó, cần hết sức thận trọng với nó, dù không thể không sử dụng. Truyền thông chỉ là một phương tiện của phương tiện. Nó không thể nào thay thế được sự tiếp xúc trực tiếp, được giáo hóa trực tiếp. Không nên chỉ y cứ vào những nội dung mà truyền thông chuyển tải, và nên luôn ý thức về sự “phì đại”, sự chủ quan và rất có thể thiên lệch, không đúng với sự thật của nó.


Người xưa nói “trăm nghe không bằng một thấy” (thấy đây là thấy trực tiếp hiện thực).


Nay có thể bổ sung: “trăm thấy qua truyền hình, qua video không bằng một thấy tận mắt”.

Minh Thạnh
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2019(Xem: 111843)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 12905)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 6255)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 25316)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 11818)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
13/03/2018(Xem: 12771)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
03/03/2018(Xem: 27956)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
03/02/2018(Xem: 16768)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
22/01/2018(Xem: 9586)
Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng 16 ngày, bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.
05/01/2018(Xem: 12165)
Sau bài giới thiệu “Đọc Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế của Thích Tín Nghĩa” phổ biến tới bạn đọc ngày 7/12/2017, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa lại gửi biếu tôi thêm hai cuốn sách : - Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập tái bản lần thứ nhất 2013. - Đạt Ma và Huyền Trang tái bản lần thứ ba 1998.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]