Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

22/09/201010:10(Xem: 6955)
Giáo pháp tứ y trong cuộc sống hiện đại

Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi.
Y pháp bất y nhân

Nghĩa là: Nương tựa, y cứ vào Pháp chứ không nương tựa người giảng Pháp, nói Pháp. Bởi vì, trong thực tế người có duyên được các Tổ, Thày thu nhận để truyền Pháp nhằm duy trì mạng mạch Phật pháp trường tồn. Hoặc các Pháp được thu nhận qua Kinh sách, các tài liệu truyền giáo củangười xưa để lại được người thông tuệ thu nhận, người ấy lại có năng khiếu “sư phạm”, mặc dù trong đời sống thực của vị ấy chưa được mẫu mựchoặc chưa phải người tiêu biểu trong Thiền môn, có những biểu hiện về tham, sân, si chẳng hạn. Trong trường hợp đó nếu ta cứ cố chấp, cứ địnhkiến với “cái ta” của vị ấy, không nghe Pháp của vị ấy nói thì ta đã đánh mất một cơ hội nghe Pháp.

Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để“thấy” đạo, tức thu nhận tinh hoa, nhận ra con đường chân lý. Ta nghe Pháp thì cũng không nhất thiết phải biết “lý lịch trích ngang” về đạo đức của người giảng Pháp là các bậc thầy có đời sống mẫu mực, phạm hạnh, gọi là “có uy đức tự tại” thì sự hiện thân của vị Thầy đó đã là một “Thân giáo” rồi.
giaophap4y

Ảnh hưởng trực tiếp Thân giáo của vị ấy sẽ cảm hoá và thu phục dễ dàng với những ai được gần gũi, tiếp cận, kể cả bậc ác vương… Thiết nghĩ, đời nay cách Phật đã hơn 25 thế kỷ rồi, Chư Thánh cũng dần khuất bóng. Bây giờ chỉ còn lại Pháp thân và Báo thân Phật mà thôi. Ấy cũng là may mắn cho loài người, cho những ai biết đến dấu chân Phật vẫn thường còn trong đời sống văn minh ở Thiên niên kỷ thứ ba này.

Thật vậy, bởi Pháp thân và Báo thân của Phật là thân chân lý tuyệt đối,là Chân thân, tức là thân không sinh diệt, và cũng là thân ứng hiện phúc đức, trí tuệ. Còn như Hoá- thân Phật, tức nhục thân là thân sinh diệt đương nhiên bị tan hoại theo lý Vô thường. Cũng từ hiểu biết về “Phật tam thân” này ta thấy thực tập nương tựa Pháp quan trọng ngần nào. Lịch sử Phật giáo còn ghi lại: Trước giờ phút sắp nhập Đại Niết- Bàn, Phật Thích Ca đã từ chối lãnh đạo Tăng đoàn và Tôn giả A-nan đã thỉnh Phật cho lời Di giáo. Đức Phật đã để lại lời dặn cuối cùng: “Hãy nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo…”

Như vậy sự nương tựa Pháp là điều chúng ta luôn ghi nhớ và thực hành.

Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh

Kinh Liễu nghĩa là Kinh nói về chân lý tuyệt đối. Còn Kinh Bất liễu nghĩa là Kinh phương tiện, chỉ nói về chân lý tương đối. Nhưng cả hai đều là sự thật căn bản nên được gọi là “Nhị đế”.

Sự thật tương đối cũng là sự thật đấy nhưng nó không sâu sắc, nó không phải sự thật tột cùng, nhưng nó cũng quan trọng để từ đó người học, người tu từng bước nhận thức thực tại, là phương tiện không thể thiếu để thăng hoa tri thức trên bước đường ngộ đạo. Còn sự thật tuyệt đối cũng hàm chứa sự thật tương đối với liễu nghĩa, Phật học gọi là Chân đế, để phân biệt với sự thật tương đối gọi là Tục đế.

Ví dụ những sự hiểu biết về “sắc không” của nhà Phật qua hai câu thơ của Từ đạo Hạnh (Đức Thánh Láng):

“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế giới này cũng không”.
Cái “có” của vật chất hiện hữu dẫu nhỏ như vi trần cũng là có,dẫu chỉ “mảy may” thôi. Đó là sự thật tương đối (Tục đế). Còn sự thật tuyệt đối là sự thật “muôn Pháp do Duyên sinh” chịu tác động của Vô thường mà “Cả thế giới này” cũng không nằm ngoài quy luật của sự hoại diệt kia. Nên nó là Chân đế, bởi “cả thế giới này cũng không” chính là Liễu – nghĩa là sự thật tuyệt đối.

Y nghĩa bất y ngữ

Nghĩa là, căn cứ vào nghĩa lý chứ không phải câu chữ. Đừng mắc kẹt vào câu chữ, ngôn từ, nó chỉ là phương tiện nhằm “đánh thức” tuệ giác chứ nó không phải là tụê giác. Chuyện du sĩ Lepali thâm ngộ giáo Pháp, từ bỏ thày cũ của mình xin quy y, Đức Phật đã khuyên vị ấy nên suy nghĩ cho kỹ, bởi đạo Phật là đến để thấy, không phải đến để tin. Chỉ sau khithực sự sống và thấy nó an lạc, hạnh phúc thì hãy tin theo. Đức Phật còn bảo rằng: “Đừng vội tin chỉ vì tôn kính bậc đạo sư”.

Lời dạy có tinh thần phê phán này là khởi điểm đầu tiên khai mở tuệ giác cho mỗi cá nhân con người chúng ta. Bởi, lời nói hay chữ viết chỉ là ý niệm của sự thật, không là tự thân của sự thật ví như tấm bản đồ thành phố không phải là thành phố, nhưng nhờ tấm bản đồ ấy ta mới “tiếpcận” thành phố dễ dàng. Câu nói người xưa: Ý tại ngôn ngoại; hay thi hào Nguyễn Du bảo: “Linh văn bất tại ngữ ngôn khoa” là điều khẳng định:Văn hay không phải ở ngôn ngữ; nên cái “hay” đều là “siêu ngữ nghĩa” cả. Đó là mượn lời để tỏ ý, được ý thì quên lời. Lời thì “chật” (ít về số lượng) nhưng ý phải “rộng” (phải hàm chứa ý nghĩa sâu rộng, thậm thâm vi diệu).

Văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari (1899- 1972) giải NOBEL văn chương 1968 từng nói: “Kinh Phật là tác phẩm văn chương vĩ đại nhất của nhân loại”. Ấy vậy mà, những ngày cuối cùng của Đức Phật, trước khi ngài ĐạiNiết Bàn Ngài đã tuyên nói với các đệ tử cùng các đại chúng rằng: “Trong suốt 45 năm Đức Như Lai không nói một chữ”. Ngài không muốn người sau bị kẹt vào những lời Ngài từng nói. Bởi “chí đạo vô ngôn”.

Sau Phật, Lão Tử cũng xác quyết chân lý này trong Đạo Đức Kinh: “Đã nóithành lời thì còn gì là đạo nữa!”. Nhưng dẫu “Bất y ngữ” là không nương tựa vào ngôn ngữ, nhưng lại cũng không thể bỏ “tục” về “chân”; màphải nương “ngữ” để sáng tỏ “nghĩa”. Ví như các Pháp thoại là lời Kinhcũng chỉ là chân lý ảnh tượng mà chất liệu là ngôn ngữ, ý niệm để người học, người tu thấy được chân lý bản chất trực tiếp từ kinh nghiệmnơi mình, chứ không phải “lấy” từ kinh nghiệm người khác, bởi nghiệp lực mỗi người không giống nhau, nên sự chứng đạt cũng khác nhau. Cho nên giáo dục Phật giáo được gọi là giáo dục “đánh thức chứ không phải nhồi nhét kiến thức hay sự áp đặt”.

Y trí bất y thức

Nghĩa là: Nương tựa vào trí tụê mà không nương tựa vào kiến thức.

Trí tuệ là hai danh từ ghép dung thông nhau, tuy nhiên có đôi chút khácnhau. Đạt tới sự tướng hữu vi là Trí- Nghĩa là mọi sự việc hiện bày rõràng, có sự phân biệt, tính đếm; nên nó quyết đoán. Đạt tới sự lý vô vi gọi là Tuệ- đó là sự thông tỏ, mà không còn phân biệt, tính đếm.

Do vậy: Trí tạo tác dụng cho Tuệ. Tuệ bao hàm, thông đạt tác dụng của Trí. Cho nên gọi đủ phải là Trí Tuệ. Và chỉ có “Y Trí”, tuệ giác mới phát sinh, tức cái “thấy” khách quan được thông tỏ tận cùng; ở đó khôngcó tham, sân, si bởi nó là Thật tướng tức Chân tướng. Vì thế đây là chỗ đáng được nương tựa, y cứ, để học hiểu, tăng ích trí tuệ. Còn “Bất ythức”, tức không nên nương tựa vào kiến thức, hoặc là đối tượng của nhận thức. Chức năng của “Thức” là sự phân biệt, phân tích, phân loại. Sự nhận biết đối tượng của nhận thức được thông qua các giác quan cụ thể như: mắt, tai, mũi, lưỡi…Nó là trung gian của suy luận và khái niệmnên đương nhiên nó hàm chứa tham, sân, si… khác với Trí tuệ là trực giác nên không có tam độc này.

Tóm lại, trong giáo pháp Tứ Y, Đức Phật đưa ra 4 cặp phạm trù; trong mỗi cặp có hai “đối tượng” để tìm hiểu, đó là “y” tức sự nương tựa và “Bất y” là không nương tựa, không y cứ vào đó, nhưng cả hai lại đều có tính căn bản nên gọi là “Nhị Đế”.

Và cũng từ cái “bất khả phân” ấy gợi nhắc chúng ta về sự tu của chính mình. Đó là tu trong ngũ uẩn thân. Từ thân ngũ uẩn có đủ cả tham, sân, si ấy mà thăng hoa tri thức, chứng đạt Giới- Định- Tuệ của Tam Vô Lậu học không thể khác được.

Pháp Vương Tử
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2011(Xem: 7783)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đức và thiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
19/03/2011(Xem: 4934)
Nhiều người ngày nay đã hỏi, “Có phải sự tích tập nghiệp báo là nguyên nhân của những vấn đề như động đất, thí dụ trận động đất vừa tàn phá Haiti”? Nếu trả lời điều ấy, dần dần nó được giải thích rằng tích lũy nghiệp báo của tất cả những chúng sinh trên hành tinh này chịu trách nhiệm cho những đặc trưng phổ biến của hành tinh này và những yếu tố làm nên nó. Với những nhân tố hiện diện, những định luật khách quan của vật lý đã vận hành. Thí dụ, sức nóng tăng lên và những chuyển động đa dạng làm nên kết quả, thí như những mãng của trái đất trượt lên nhau, và v.v… Một biểu hiện của chuyển động ấy là động đất. Từ quan điểm này, động đất là những kết quả không tránh khỏi của hành tinh chúng ta sinh khởi như thế ấy; và nó đã từng sinh khởi như nó là kết quả của nghiệp báo tích lũy vô cùng rộng lớn của tất cả chúng sinh những kẻ đã từng sinh sống tự bao giờ trên hành tinh này. Ông có bình luận gì về điều này?
18/03/2011(Xem: 5051)
Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề cập đến nhiều tôn giáo hoạt động vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế nên chúng tôi nhân đây giới thiệu đến quý Phật tử cái nhìn đơn giản về những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay. Trong mục này vì phải đưa ra một số dữ kiện lịch sử cho nên mặc dầu luôn cố gắng giữ mình trên cương vị khách quan, trong tinh thần xây dựng, nhưng dầu sao ít nhiều chúng tôi cũng không tránh khỏi sự sai lầm để cho cái bản ngã đáng ghét, chủ quan hẹp hòi thiển cận của mình xuất hiện. Nếu có đoạn nào không hài lòng, xin quý độc giả rộng tình bỏ qua. Chân thành cảm tạ.
19/02/2011(Xem: 4928)
Sau thế kỷ ánh sáng, thái độ trịch thượng và độc tài của khoa học không phải chỉ đối với tôn giáo mà còn đối với các khoa học ‘nhân văn’ khác. Những môn học nào không dùng lý trí và phương pháp thực nghiệm đều bị chê là ‘thiếu khoa học” hay khoa học ‘nửa vời’. Các nhà khoa học đắc thắng biến phương pháp khoa học thành ‘chủ nghĩa’ duy vật khoa học.
11/02/2011(Xem: 33656)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
05/01/2011(Xem: 9439)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
05/01/2011(Xem: 36523)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 51614)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
02/01/2011(Xem: 8480)
Người xưa nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Con người có mặt trong cuộc sống, ngoài việc phải nắm bắt thời gian, giành lấy thời gian, tận dụng thời gian, làm nhiều việc mang lại lợi ích cho xã hội, ngoài mục đích kéo dài tuổi thọ về mặt thời gian ra, còn cần phải mở rộng phạm vi đời sống, mở mang không gian tâm linh, để bản thân có thể hòa nhập vào nhân quần, hướng về cộng đồng thế giới.
01/01/2011(Xem: 10390)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]