Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vận Hành-Thức A-Lại-Da Trong Thân Tử Ấm

20/03/201702:48(Xem: 8500)
Vận Hành-Thức A-Lại-Da Trong Thân Tử Ấm


vong luan hoi 2

Vận Hành-Thức A-Lại-Da
 Trong Thân Tử Ấm

Đức Hạnh

 

 

    Sau khi nhịp đập của con tim bị ngừng lại và cùng lúc 5 giác quan của toàn thân con người không còn biết cảm giác, gọi là Chết. Nhưng thức A-lại-da bên trong vẫn còn hằng chuyển liên tục và hoạt động một mình. Sự hoạt động đơn phương của nó y như lúc con người còn sống đang ngủ say.Thức A-lại-da hoạt động một mình, không có 5 giác quan của cơ thể bên ngoài cộng tác. Vì vậy mà Tâm Lý Học gọi là Vô thức, Tiềm thức hay là Đà sống, tức là thức A-lại-da hằng chuyển liên tục không ngừng nghỉ, dù cho thân xác con người có chết đi, nó vẫn hoạt động. Cho nên ở thân xác con người còn sống, sau khi ngủ dậy, người ta ngồi nhớ lại những cảnh vui, buồn, hãi hùng... trong giấc chiêm bao vừa qua. Ở đây, thân xác con người chết cũng như thế, thức A-lại-da cũng hoạt động một mình nhưng, trạng thái hoạt động của nó có vẻ nhẹ nhàng và bay bổng, không giống như trạng thái nằm mộng của thân xác còn sống. Cho nên thân xác con người vừa chết, tâm thức con người thấy nhẹ nhàng và thấy mình bay bổng, tức là Thức A-lại-da lìa khỏi xác. Chính sự thấy nhẹ nhàng đó là Thức A-lại-da thấy, chứ đâu phải thân xác thấy, vì thân xác đã chết rồi, không còn có cảm giác nữa! Từ chỗ này ta càng thấy rõ TA là Thức A-lại-da, chứ không phải thân xác còn sống và chết là ta.

    Vì hai giấc mộng lúc sống và chết đều là do Thức A-lại-da hoạt động. Hoạt động là sự diễn lại, nhớ lại chuyện xưa, tích cũ từ quá khứ cho đến hiện tại. Sự biết và nhớ của Thức A-lại-da sau khi thân xác chết cũng giống như lúc con người còn sống nằm gác tay lên trán nhớ nghĩ việc này việc nọ, hay ngồi một mình tư duy về các việc Đời, Đạo được sắp xếp chương trình, kế hoạch (master plan) để tuần tự thực hiện, nhưng thình lình bị đau bịnh làm cho bản thân tứ đại chết đi. Hoặc là những việc mà người ta đã dự trù thực hiện trước đó vài ngày, vài giờ như có ý định đi thăm thân nhân, đi đến trường đại học, đi đến nhà thờ để tập hát cho ca đoàn, nhưng chưa thực hiện kịp thì cơ thể bị chết.

     Nói tóm lại, lúc con người đang sống, tâm thức sanh khởi ý tưởng muốn thực hiện một, hoặc nhiều sự việc ngay hiện tại, nhưng thân thể bị chết thình lình. Vì vậy xác thân đã chết mà tâm thức người chết cứ ngỡ rằng mình đang sống, nên chi tâm (thức A-lại-da) của họ nhớ đến các việc rồi muốn đi thực hiện ngay. Do sức mạnh của tâm thức ước muốn, thức A-lại-da liền tự tạo cho nó một xác thân vô hình mờ ảo, nhỏ bằng đứa trẻ lên 5, hoàn toàn bằng những chất liệu tinh thần do những giác quan tinh thần của nó. Rồi nó ra khỏi xác là con đường hầm tối tăm, sau đó nó nghe, thấy, biết hình ảnh, âm thanh của con người và vạn vật hiện hữu chung quanh nó trên bước đường đi thực hiện những việc gần nhất trước đó vài ngày, vài giờ khi chưa chết được sắp xếp trong tư tưởng. Thân này gọi là thân Tử ấm còn gọi là thân Vọng ước do các giác quan tinh thần của nó tự cấu tạo, nên nó có thể đi qua bất cứ chướng ngại nào như núi cao, biển rộng, các tòa cao ốc, vào tận nơi các cung điện thâm sâu của nhà vua, hoặc là đến bất cứ nơi nào như rạp hát v.v... không cần phải mua vé, cứ vào thoải mái và ra lại tự do mà không bị ai hỏi han xét vé gì cả.

 

   THỜI GIAN THỌ MỆNH CỦA THÂN TỬ ẤM

    Thân Tử ấm và thức A-lại-da là một. Sở dĩ được gọi là thân Tử ấm là vì thức A-lại-da tự nó cấu tạo cho nó có những giác quan tinh thần giới hạn được nghe và thấy sự vật và con người đang sống. Riêng về sự thấy, trên cơ sở nguyên lý về ánh sáng mà thân Tử ấm thấy lờ mờ, nhá nhem như chiều chạng vạng hay rực rỡ sau khi ra khỏi con đường hầm u tối của thể xác là tùy theo mức độ Thiện, Ác có trong tâm thức con người lúc còn sống.

    Thân Tử ấm được có từ lúc xác thân con người chết, nó nằm im trong một khoảnh khắc vài mươi phút, rồi thoát ra khỏi thân xác sau khi các giác quan tinh thần chết hẳn, thân Tử Ấm đi chu du một hồi tùy theo sở thích của nó. Thân Tử ấm quay trở về xác cũ, gặp lại bà con và cảnh vật tại nhà, mà chưa biết mình đã chết.

    Trong khoảng thời gian gặp gỡ thân nhân và nhìn thấy thân xác cũ, thân Tử ấm có thể nhập lại vào xác cũ, tức là hồi sinh mà y khoa gọi là cái Chết Lâm Sàng (chết đi sống lại) nếu cơ thể còn tươi và nóng. Trường hợp này thường xảy ra không ít trên thế giới hiện nay.

     Cũng trong khoảng thời gian gặp gỡ mọi người và tại vị trí xác thân cũ như thế này, mà thân Tử ấm không được hồi sinh (sống lại) coi như thân xác đã chết hẳn. Từ đó, sau những giờ phút lấn quấn bên xác cũ, cũng như chung chạ với bà con, thân nhân, nhưng thấy mình bị cô đơn, bởi vì hỏi ai, ai cũng làm ngơ, rờ vào đâu cũng thấy như rờ hư không, nhìn thấy người thân trong gia đình khóc lóc, mới biết rõ rằng mình đã chết. Liền tức khắc, những giác quan tinh thần của thân Tử ấm bị rối loạn hay tự an trú vào sự tĩnh lặng là tùy theo thức A-lại-da của nó có sự hiểu biết hay không, rồi bị chìm lặn vào ánh sáng riêng biệt của nó. Thân Tử ấm được chấm dứt ngay từ lúc này. Sau đó các giác quan tinh thần của thức A-lại-da vươn lên trở lại rồi tự cấu tạo một thân Trung ấm và tự chìm lặn vào ánh sáng trong vắt, sáng rực hay u ám, mờ đục tùy theo quả báo nghiệp thiện, ác nhiều ít của con người lúc sống trên đời đã tạo.

 

VỊ TRÍ THÂN TỬ ẤM ĐI RA TRÊN CƠ THỂ XÁC CHẾT.

    Tùy theo căn bịnh hay tai nạn làm cho cơ thể con người chết lạnh mau hay chậm. Và sự chết lạnh dần trên cơ thể con người không nhất thiết là từ chân đến đầu hay từ đầu đến chân. Có thể bắt đầu lạnh từ hai tay hay hai chân trước, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Điều quan trọng là còn một điểm ấm nhỏ trên cơ thể xác chết con người, đó là điều quan trọng mà ta phải để ý, vì nơi đó được đánh giá về trọng lượng nghiệp quả Thiện, Ác của thức A-lại-da đi ra mà con người lúc sanh tiền ăn ở hiền lành hay tàn ác. Điểm ấm sau chót là chỗ thức A-lại-da (còn gọi là Thần thức) đi ra, có thể là ở chỗ cao nhất là đỉnh đầu là con đường về Cực lạc và Niết bàn. Ở trán là đường về các cõi Trời. Ở ngực là con đường về Người. Ở bụng là đường vào loài Súc sanh. Ở đầu gối là đường vào Ngạ quỷ. Ở bàn chân là con đường vào Địa ngục.

 

 

    

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2019(Xem: 11307)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16257)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 12914)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 6780)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82339)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11157)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5338)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 21685)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10509)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
13/03/2018(Xem: 11337)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567