Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về Phật Học và Nhân Học

27/10/201021:13(Xem: 11438)
Tản mạn về Phật Học và Nhân Học
TẢN MẠN VỀ PHẬT HỌC VÀ NHÂN HỌC 

Nhụy Nguyên

Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ, xem như mắc tội vậy. Phật không bao giờ cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc, mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.

Thiền sư Hắc Thủy Thừa Cảnh bên Trung Hoa có hai câu thơ tuyệt cú:
Rổng rinh vô hạn trùm trời đất
Ẩn hiện sương mù nắng Phật lên 

(Quách nhiên thản đấng châu sa giới
Trước vụ tiềm dung Phật nhật huy)

Thi nhãn nằm ở “nắng Phật”, ý của ngài rõ ràng: “Đất lớn che không hết, mặt trời ấy lồ lộ khắp mọi nơi”. Phật pháp vô biên trùm khắp cõi nhân gian, không gì không bao hàm, song không phải để khẳng định sự cao vời tối thượng mà thấm nhuần ánh sáng đến mọi ngóc ngách tăm tối thế gian.

Bài viết nhỏ mọn này xin phép dẫn ra một số quan điểm triết học nổi trội mang tính biện chứng cao của các học giả tầm vóc thế giới; chứ không [đủ tư cách] mong tìm thấy nhược điểm trong triết thuyết họ đưa ra (ví như có vị đạo sư chỉ vào câu “Tôi suy tư tức là tôi tồn tại” của René Descartes). Đạo Phật, và ngay cả khoa học ngày nay cũng thừa nhận: con người được cấu thành từ vật chất (thân xác, sự dung hợp của tứ đại) và phi vật chất (tâm, ý, các thức…). Một hành động của thân bao giờ cũng xuất phát từ tâm [ý] rồi mới dẫn lên trí, trí sẽ phát lệnh cho chân tay miệng tạo tác. 

Một câu trong Đại học: “Bậc quân tử nhất định phải khiến cho ý niệm của bản thân mình được chân thành”. Dĩ nhiên, sự đối sánh sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu như Phật không sinh ra trước những “nhân vật” nêu ra. Dựa trên sự khảo cứu của thiền sư “tam bộ nhất bái” Hư Vân, Phật sinh trước cả Khổng Tử. Quan trọng hơn, con người, nhất là những người đắc quả, thân tâm bây giờ là quá trình tiếp nối các đời trước, mọi “dữ liệu” được tồn lưu ở thức thứ tám A lại da. Và, chỉ tính trong hiền kiếp này, trước Phật Thích Ca thì đã có 3 vị Phật xuất thế… Sau Phật Thích Ca, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm: hiện nay tuổi thọ của loài người ở trong kiếp giảm, khi giảm xuống còn 10 năm rồi lên đến 84000 tuổi, thì Phật Di Lặc sẽ xuất hiện tiếp tục củng cố và phát huy kinh điển Phật từ vô thỉ.

Trước hết cần cắt nghĩa, Đạo Phật là nhằm Tu Thân. Tu để sống tốt hơn trong kiếp này và đặc biệt hướng tới Niết bàn. Đạo Phật chính là phơi lộ chân tướng vũ trụ, về con đường giác ngộ đưa chúng sanh ra khỏi sáu nẻo luân hồi, vĩnh viễn thoát khổ. Hễ chừng nào còn trong luân hồi, cơ hội vào ba đường ác lại nhiều hơn ba nẻo thiện (vì ác tâm sở bất thiện có đến 26, tâm sở thiện chỉ 11); phần Phật thuyết về đạo hạnh làm người có thể gọi là Triết lý Nhân sinh. Con người trang bị các triết lý khác rồi mới quay trở lại trang bị cho mình triết lý nhân sinh là vòng vèo, nhiều khi lạc mất đường về và biết đâu chẳng còn thời gian? Phật nói “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”; đời đã biến thành câu thông dụng “Quay đầu là bờ” để chỉ người sai lầm, sớm tỉnh ngộ viết lại cuộc đời.

Ai cũng đều được sinh ta từ cha mẹ. Đạo làm người ai không trọng chữ Hiếu. Kiều bởi chữ hiếu mới bán mình vào lầu xanh. Cổ nhân dạy: “Vạn ác dâm làm đầu, trăm thiện hiếu trước tiên”. Từ Nho giáo đến đạo làm người ngày nay chữ Hiếu vẫn luôn được tính điểm cao nhất ở mỗi người. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy Hoàng hậu Vi Đề Hy (mẹ vua A Xà Thế) chánh nhân vãn sanh là Tịnh nghiệp tam phước, còn là chánh nhân của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai. Câu đầu tiên trong Tịnh nghiệp tam phước: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng”; tức chữ hiếu vẫn làm đầu. Trong nhiều bộ kinh Phật khác đều tôn Hiếu Đạo: Địa Tạng, Sám Hối. 

Đặc biệt kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, một trong ba người vừa được xếp hàng thánh nhân của thế kỷ thứ 20 (cùng với thi hào Tagore và Mahatma Gandhi) – “bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại” đã nói: “Chúng ta sanh ra và tái sanh trong vô số kiếp. Có thể mỗi chúng sanh đã từng là cha mẹ của chúng ta trong một đời này hay đời khác”. Một lần Đức Phật dừng lại bên đống xương khô và lạy, đệ tử hỏi nguyên do Ngài nói đây là cha mẹ ta các đời trước; rồi giảng, xương to và trắng là của người cha, xương nhỏ và thâm là của mẹ bởi đã vắt kiệt sữa và máu cho con, lại phải làm việc vất vả bội phần…Đọc kinh này ai không nước mắt thấm vào trong!

Người đời thấy người tu rời đại gia đình, rời cha mẹ lên chùa hay ở riêng tịnh thất cho là… bất hiếu. Người tu họ hiểu nếu không thành tựu trong sự nghiệp tu tập, sẽ không thể giúp được ai ở kiếp này và khẩn thiết hơn là kiếp sau. Phần lớn cha mẹ đều để lại cho con gia sản [khổng lồ], nhưng khi qua cõi Thân trung ấm (bardo) chịu nghiệp quả từ việc kiếm số tiền cho con đó, mong con trích ra một phần trăm thôi để làm thiện hồi hướng cho mình – là điều hoang tưởng. Bởi, con đâu có học Phật, đâu biết cha mẹ cần con hồi hướng công đức chứ không phải là đồ hàng mã! 

Đạo Nho được đề cao xưa nay cũng nhờ một chữ Hiếu to đùng treo nơi trịnh trọng mỗi gia thất. Tinh thầnhiếu để ấy nếu soi vào Đạo Phật e khiêm tốn hơn nhiều. Ca dao từng đúc kết từ Đạo Phật: “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”. Chẳng những thờ, kính, Đạo Phật còn có hẳn mùa Vu lan báo hiếu. Thờ, kính mới chỉ ở đời này, mà chưa chắc đã trọn. Đạo Phật còn thôi thúc mỗi người tu tinh tấn hơn; nếu mình không giải thoát thì đừng mong chi báo hiếu mẹ cha ở các cõi thấp hơn cõi người. Hiếu trần ai mới là hiếu ở cấp độ thấp. Hiếu trần ai mới chỉ vài thứ vật chất mà thảy gần như đều vô nghĩa ở bên kia núi. 

Nhiều người bây giờ lớn lên trôi tuột theo dòng đời kiếm tiền dung dưỡng xác thân; tưởng về xây cho cha mẹ ngôi nhà lớn, thuê người cung phụng hàng ngày của ngon vật lạ – là hiếu. Trên tinh thần Đạo Phật, đó mới chỉ là hiếu phàm phu. Thử nhìn nhận, một người mang danh đạo đức song đi đâu cũng bị người đời chửi mắng (tất nhiên là chửi mắng có lý do chính đáng), ấy chẳng phải Đại Bất Hiếu? Thậm chí còn bất nghĩa với tổ tông dòng tộc. Ngược lại, một người sống chân thành, luôn giúp đỡ động viên mọi người không phân biệt thân sơ…, chẳng phải cha mẹ nở mày nở mặt, chẳng phải là Đại Hiếu. Mục Kiền Liên – người đệ tử đắc quả, thần thông bậc nhất của Đấng Thế Tôn nhờ nương vào mười phương chư tăng nhất tâm chú nguyện mới cứu mẹ thoát cảnh bưng chậu máu đứng trên bàn chông dưới địa ngục. Nên mới có câu niệm: “Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ma ha tát”.

Để có Hiếu và có Đạo, ngoài “nhân chi sơ tính bổn thiện”, đòi hỏi mỗi người phải tu, tức thanh tẩy thân tâm. Trước hết lạm bàn đến câu nói của Mạnh Tử ở phương diện Đạo Phật. Tam tự kinh: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Kinh Phật thuyết: “Viên mãn bồ đề vi vô sở đắc”, nghĩa là tất cả có trong tự tánh; tu “đơn giản” chỉ là khôi phục [nới rộng] lượng tâm vốn dĩ. Hay: “Chúng sanh và Phật vốn không hai”; hay: “Tất cả chúng sanh vốn là Phật” (Kinh Hoa Nghiêm); bộ kinh quan trọn nhất trong vườn kinh điển Đại Thừa là Pháp Hoa cũng viết: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” (Chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật). 

Một đứa trẻ sinh ra tâm như tờ giấy trắng. Lúc tích lũy nghiệp chưa thức giấc, nếu gặp môi trường tốt (lớn lên ở chùa từ nhỏ hoặc trong gia đình Phật tử) Phật tính sẽ nẩy mầm. Còn gặp môi trường không tốt, các chủng tử sẽ bám rễ vào vỏ vô minh. Trẻ em thời nay mới vài tuổi đầu đã không thể rời máy tính và thích chơi di động, tâm loạn động với muôn trò trong đó gồm cả loại vũ khí hiện đại nhất. Mười đứa trẻ đang ăn thứ gì, ta thử ngửa tay xin chúng một miếng nhỏ, bao đứa sẽ cho và bao đứa khư khư giữ chặt và hét lên khi ta nhón tay vào? Có thể những kiểu đòi như vậy rất bình thường, nhưng nếu so với bàn cân của Đạo thì thật nghiêm trọng. Nếu cha mẹ từ nhỏ dạy trẻ cho thì lớn lên, trừ hao chí ít chúng cũng không lấy của ai. Nhưng mấy cha mẹ kiên trì dạy con như vậy khi chính họ lại muốnnhận. Hơn thế do sự chậm lụt sở kiến mà một đứa con khởi ý muốn lên chùa, họ nghĩ mất con bèn giằng lại bằng được. Tột thật muôn trùng!

Hoa Nghiêm kinh chốt lại vấn đề này: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai”. Điều cốt yếu là mạch ngầm ấy có được khơi dòng. Chính do ở người lớn. Một đứa trẻ lên ba ta đã thấy chúng bắt đầu nhiễm ô, huống hồ ba chục tuổi. Người tu là người dùng bàn chải cùng với xà phòng đánh tẩy những vết nhơ ăn sâu cho đến khi tâm nguyên sơ trong trắng như… đứa trẻ mới hầu mong thấy tánh.Trong Đạo Đức kinh Lão Tử luận: “Trở về ngây thơ, đức vĩnh viễn không sai lạc”. Nước luôn được lấy để minh thị về Phật và chúng sanh không hai khác. Chân tâm tự tánh là Phật (nước trong); phàm là mê lầm chấp trước (nước đục). Nước nào cũng có thể lọc nên trong.

Thời đại bây giờ để sống tốt hơn phải vùng vẫy, phải thiệt thòi, khổ và khiêm ái. Ấy là tu thân. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. (Từ vua đến dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc). Phật giảng: “Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân”. Ai ai đều tự tu để cứu mình. Em của Phật là ngài A Nan cũng như bao đồ môn khác, việc tu tập phải tự nương ở chính mình… Trên dòng cuồng lưu của nghiệp thức, nếu con người không biết đời thọ khổ, không tin tâm vô thường, pháp vô ngã, sẽ bị cuốn trôi đến tận cuối nguồn dâu bể. Cuộc đời – dòng chảy không ngừng của nghiệp thức ấy hòa vào máu huyết căn mạng đời người. 

Đức Phật nói: “Dòng nước sông Hằng phút trước và phút sau đã khác nhau. Ta của ngày hôm qua đã khác với ta của ngày hôm nay”; thật gần với một câu được xếp hàng biện chứng kinh điển của Héraclitos: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Tu thân là bơi ngược dòng cuồng lưu nghiệp thức, chỉ cần lơ là buông lơi tỉnh thức, công lao sẽ nhảy về không. Ngạn ngữ Pháp: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng”. “Ngủ quên”; ở trong giấc thiền là “hôn trầm”. Nên cần phải “mở to mắt ra”. Đạt được chút Phật quả nhỏ xíu, đã tưởng mình bậc giác ngộ tối thượng. Hư Vân thiền sư từng căn dặn người tham thiền: “Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng”. “Không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành” (Kinh Lăng Nghiêm).

Nhân sinh triết học của Lão Tử khuyên người đời nên “đem thân vì thiên hạ”. Người tu chân chính trong cõi Phật không ai tu cho mình cả. Ước nguyện của họ chính là Đắc Đạo – Tái Sinh – Giảng Pháp, vòng tròn ấy liên tục từ kiếp này đến kiếp khác, như Đức Đạt Lai Lạt Ma với 14 lần tái sinh và thật nhiều Bồ tát nữa. Phật Thích Ca cũng từng thành Phật từ vô thỉ. Từ Bồ tát lên Phật không xa, song họ vẫn muốn là Bồ tát để trở lại cõi nhân hóa độ chúng sanh. Phật Địa Tạng giương cao tấm bảng: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống, tôi thề không thành Phật).

Vậy để thấy, người tu giả như không giúp được gì ít ra cũng không đụng chạm đến quyền lợi của ai, không làm phiền ai. Khổng Tử: “Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn). Những điều mình không muốn ở đây là sự chán ghét, khó chịu hiển nhiên và có tính phổ quát. Một bữa tiệc thịnh soạn thì khoai, sắn, cháo trắng là những món mình và người khác không ưa. Gần hơn, trong bữa cơm có vài món (dẫu ngon) song đã ngán, ta mới nảy ý bưng qua cho hàng xóm nghèo hèn để lấy lòng. Thực tế hành động này tạo nghiệp. Lý ra nếu cho kiểu ấy, nhà giàu kia phải cảm ơn người nghèo thay vì tự đắc mình người tốt. Miếng ăn ấy để đến chiều sẽ phải đổ cho chó. Còn nếu không có chó nhà giàu đổ vào hố rác – vô tình gây nghiệp… Người nhà Phật sao có thể đẩy khó khăn về người khác; ngược lại nhận về mình cái dở, cái khó, cái nặng nề ô uế. Phật Thích Ca Mâu Ni độ người đầu tiên là Kiều Trần Như vốn đời trước đã “lăng trì” mình, để… trả ơn.


Nhiều người ra đường gặp người dưng giúp đỡ còn hơn cả anh em ruột rà, mà không hay ấy là ân nhân đời trước của mình. Nếu biết khiêm nhu, chớ khoe khoang việc thiện (ngoại trừ lấy để làm gương), thì phước của họ đạt cấp số nhân. Quá coi trọng phần vật chất trong mình sẽ bỏ quên phần phi vật chất. Cõi trần được tạo dựng trên nền vật chất, con người bởi thế chỉ tin những gì hiện hữu. Gửi một trăm ngàn vào ngân hàng sẽ còn đó, cũng số tiền ấy “gửi” vào việc thiện chúng ta ngỡ mất, thật ra nó còn. Việc khoa học sáng chế ra máy thu âm và hình ảnh quá khứ…, đã phần nào cho thấy không gì biết mất khỏi không gian này. Nghiệp thức là chiếc camera sẽ ghi lại tất cả ý nghĩ và hành động của mỗi người để từ đó cấp cho họ thân gì ở kiếp khác. Giêsus trong bài giảng trên núi dạy: “Khi con làm phúc của gì, chớ cho tay trái biết việc tay phải làm”. 

Sự khoe khoang hãnh diện trước thiên hạ sẽ trừ phần trăm số đức ta làm được. Người đời thường sợ thiên hạ không biết đến thiện nghiệp của mình nên mới vậy, thực tế đó là lối suy nghĩ “khủng hoảng thừa”. Kinh Hoa Nghiêm chép, đại ý, nếu các quốc độ đều nghiền ra bụi thì Bồ tát cũng đếm được số bụi đó. Chính vậy trong Kinh Dịch, quẻ Khiêm được xếp tốt nhất, và bao giờ cũng thuộc hàng đầu đối với người muốn nghiên cứu nó. Nhẫn được đề cao trong nghiệp tu. Người có sẵn Khiêm từ nhỏ là hiếm; người sơ cơ phải tu Khiêm, thì phải bước qua Nhẫn. Chữ Nhẫn ở trên có bộ Đao, dưới là Tâm; động niệm [ác] thì dao rơi xuống xuyên tim! Nhẫn trong Đạo Phật có thể ví như hạnh của Đất (hiền như đất), người ta có thể dội nước sạch và cũng có kẻ hắt nước bẩn vào…

*

Học trò có lần hỏi chết là gì? Khổng Tử dạy: “Chưa hiểu cuộc sống làm sao hiểu được cái chết”. Câu này nếu bàn sâu, là một hạn chế. Nếu bàn nghĩa gần, là ưu việt. Phương ngữ truyền: “Biết có sống đặng đến mai mà để củ khoai đến mốt”. Kinh Phật thường nói về luân hồi kiếp và các cõi thánh cao vời, tuy nhiên điều trọng yếu để tu là luôn an trú trong hiện tại. Ai tu mà tưởng về quá khứ vọng về vị lai thường dễ lạc vào ma đạo. Người tu Thiền hay Tịnh độ, đích vẫn là giữ tâm tịch tịnh, không phóng tạp niệm ra ngoài hơi thở mới hầu mong thành chánh quả. Tận kiếp này ai rồi cũng phải qua con sông rộng, ở đấy không một con đò nào cũng không ai đủ sức bơi, vấn đề là phải chuẩn bị một cái phao. Chọn trong những pháp môn đã được Phật truyền giảng, xem điều kiện và duyên mình hợp với Mật tông, Thiền tông hay Tịnh độ… Tu là từng ngày một ta bơm khí vào phao; phao căng thì cái chết trở nên nhẹ tựa lông hồng. Thêm nữa là Đức. Đức như “tiền”; nếu ta luôn sẵn tiền trong túi thì chẳng lo trôi dạt về đâu. Dĩ nhiên nếu phải rời kiếp này, tiền là rác; Đức mới là giấy thông hành.

Đạo Phật rốt ráo và đầy biện chứng giúp mỗi người có thể chuẩn bị chỗ đứng cho mình ở đời sau – điều không một đạo hay tôn giáo nào đầy đủ và cặn kẽ hơn. Đạo Phật đối với đời này, nó chỉnh lại toàn bộ thân tâm kiếp người mà bất cứ đạo học nào cũng chỉ là nội hàm. Nếu đi đến khẳng định điều này ắt phải nhờ đến công lao của một Viện. Tôi là kẻ sơ cơ mạt học, đọc Phật mới chỉ mơ hồ cảm nhận: Tâm bao giờ cũng cao hơn Trí. Trí là thuyền để vượt sông ô trược cập bờ Tâm. Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nhắc đến quả vị Vô Học tức đạt tối thượng Bát nhã trí huệ chỉ ở bậc La hán. Công án Thiền quan trọng nhất trong Tam bảo chắc chắn là Ngón tay chỉ trăng. Thiểu trí dĩ nhiên khó tiếp cận tri thức, nhưng qua sông nhất khoát phải dìm thuyền.

Nguon:thuvienhoasen.org
Ý kiến bạn đọc
22/04/201909:34
Khách
Tu là sửa. Sửa thì khó vô cùng, một lần sửa một lần đau, giống như chết đi sống lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2019(Xem: 11259)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16202)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 12842)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 6748)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 81710)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11102)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5310)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 21561)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10459)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
13/03/2018(Xem: 11273)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567