Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và vũ trụ

27/11/201402:58(Xem: 12548)
Phật giáo và vũ trụ
vu tru

Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.


Cách đây 2.600 năm trước, đối với thời không rộng khắp vô cùng ấy, Đức Phật đã có kiến giải thấu triệt, sâu sắc; điều này chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trong các kinh điển Phật giáo. Do nội dung sâu rộng của giáo pháp, đệ tử Phật qua các thế hệ đã tìm hiểu nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, dần dần làm cho nội dung “Vũ trụ luận” của Phật giáo ngày một phong phú, các học phái ồ ạt ra đời. Lấy Thế gian luận mà nói, Phẩm Diêm phù châu trong Kinh Khởi thế miêu tả và trình bày sự hình thành của “tam thiên đại thiên thế giới” cho thấy trong vũ trụ đang tồn tại con số những thế giới đếm không xuể, nhiều đến nỗi có thể dùng số lượng của “hằng hà sa” hay của “vi trần” để ví von, gọi chung là “tam thiên đại thiên thế giới” hay “thập phương vi trần sát độ”. Tam thiên đại thiên thế giới này, trải qua quá trình thành, tựu, hoại và không, không ngừng lưu chuyển tuần hoàn.

Đối với thế gian hữu tình và tịnh độ Phật quốc, vũ trụ quan Phật giáo đã có cách nhìn sâu sắc, thấu đáo: thế gian hữu tình nương vào quả báo tốt xấu của chúng sinh với sự sai biệt khổ lạc có thể chia làm ba tầng dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, gọi tắt là “tam giới”. Dục giới là nơi chúng sinh nam nữ có ái dục về giới tính và những ái dục khác, sống tụ tập với nhau, lấy ngũ dục duy trì sinh mệnh, do dục niệm thiện ác ấy trôi chảy, mà có quả báo thụ sinh trong “lục đạo”. Sắc giới là nơi chúng sinh đã viễn ly tình dục, ở trên cõi dục, không có sự phân biệt nam nữ, không tồn tại ý niệm tồn tại tình ái, đều do tu tập từ “định” mà hóa sinh, nương vào độ sâu cạn, thô diệu của thiền định phân làm bốn cấp, tất cả có mười tám tầng trời. Trên nữa là cõi trời vô sắc, cõi này không có vật chất, chỉ lấy tâm thức trú ở thiền định thâm diệu, là thế giới tinh thần thuần túy.

Trong Phẩm Thí dụ của Kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới vô an, do như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khả bố úy, thường hữu sinh lão bệnh tử ưu hoạn”, nghĩa là tam giới không yên, hệt như nhà lửa, khổ não đầy vơi, thật đáng kinh hãi, thường hiện hữu sinh già bệnh chết và khốn khó. Khi thế gian mới có ý báo chiêu cảm nghiệp duyên của hữu tình chúng sinh, tam ác ngũ thú trà trộm ở với nhau, Đức Phật nhằm khiến cho chúng sinh thoát ly cõi trọc uế, mới tuyên truyền thuyết tịnh độ Phật quốc thanh tịnh an lạc, khuyến khích chúng sinh phát nguyện vãng sinh, không còn thọ khổ trong luân hồi. Kinh A-di-đà nói: “Tùng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc”, tức là từ Tây Phương, qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc, ở đấy, đất được rải bằng những bảo vật quý báu, lầu gác được làm bằng thất bảo kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách và san hô, không tồn tại tam ác đạo, đều là nơi tụ hội, gặp gỡ của những người lành thượng đẳng. Trong Kinh Dược Sư cũng ghi chép, trong thế giới lưu ly của Đông Phương Dược Sư Như Lai, vật chất dân sinh phong phú, tất cả đều có thể làm theo ý muốn, nhân dân hiền lành đôn hậu. Ngoài ra, Luận Thập trụ Tì-bà-sa, Kinh Thập cát tường v.v., đều tỉ mỉ ghi lại các chủng loại của thập phương Phật quốc tịnh độ.

Đạo lý duyên khởi mà Đức Phật chứng ngộ nêu rõ rằng “chư pháp nhân duyên sinh, chư pháp nhân duyên diệt” (các pháp do nhân duyên mà sinh khởi, các pháp cũng do nhân duyên mà biến diệt). Thế gian vạn vật, bao gồm hữu tình và vô tình, đều sinh diệt biến hóa dưới ánh sáng duyên khởi, bởi thế nhận thức về sự nảy sinh hay sự tăng giảm của vũ trụ chính là nguyên lý duyên khởi, hệt như một vòng tròn, vô thủy vô chung (không có điểm khởi đầu, cũng chẳng có điểm kết thúc), vì vậy không có cái gì gọi là sự duyên khởi hay thuyết sáng tạo của vũ trụ, các tông phái Phật giáo đều có chủ trương, như Nghiệp cảm duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, Pháp giới duyên khởi… Nhưng những lý luận này không nằm ngoài sư tạo tác của tâm, “tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt, nếu tâm không tồn tại, thì hết thảy pháp nào tồn tại”, gọi là một tâm có thể sinh vạn pháp, “tâm bao hàm cả thái hư và khắp thế giới hà sa”, tam thiên đại thiên thế giới đều là những biểu hiện của tâm thức. Cái lớn của tâm lực, sự vụt biến nhanh chóng của tâm niệm là không có gì có thể so sánh nổi, thế giới của tâm rõ ràng là vô cùng vô tận hơn nhiều so với thế giới vật chất, gọi là “Nhất niệm tam thiên”, tâm niệm vừa khởi thì có thể ngao du, rong chơi trong tam giới lục đạo hay vũ trụ mênh mông vô cùng vô tận. 

Trong Phẩm Súc sinh thuộc Kinh Chính Pháp niệm xứ nói: “Tâm năng tạo tác nhất thiết nghiệp, do tâm cố hữu nhất thiết quả” (tâm có thể tạo tất cả nghiệp do tâm cho nên mới có tất cả quả), lại nói: “Tâm vi nhất thiết xảo họa sư, năng ô tam giới khởi chúng hành” (Tâm như những vị họa sĩ giỏi, có thể vẽ nên tất cả trong tam giới, nên biết “tâm” là thế giới vũ trụ vi diệu bất khả tư nghì, chúng sinh trôi lăn trong lục đạo, hoặc thành Phật, làm Tổ, đạt đến Thánh cảnh, hết thảy chỉ do hành vi của tâm mà quyết định. 

Vì vậy, chúng ta bất tất truy tìm bên ngoài tâm, chỉ cần giác ngộ tâm này, không tự làm những việc bất chính, thì sơn hà đại địa, cây cối hoa cỏ, đi hết vào trong não bộ, tức thì một niệm chính là pháp giới, thế giới sa-bà trong chớp mắt biến thành tịnh độ, sự khởi diệt của vũ trụ vạn tượng và của tâm thức, chắc chắn sẽ rộng mở rõ ràng, niệm niệm không bị sóng gió của nghiệp cảnh xoay vần, đảo điên, tợ như đạo lý mà Thiền sư Vô Môn nói “nhật nhật hảo nhật” (mỗi một ngày trôi qua đều là những ngày tươi đẹp), an nhiên tự tại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/12/2010(Xem: 3763)
Tiến trình cục bộ hóa Phật giáo có thể nói là bắt đầu từ sự phân chia các bộ phái Phật giáo, sau đó là sự phân chia các tông phái. Tự thân sự phân chia Phật giáo thành những bộ phái, tông phái không thể coi là tiến trình cục bộ hóa. Nhưng sự khép kín cô lập, thậm chí là phát sinh mâu thuẫn giữa các bộ phái, tông phái có thể coi là tiến trình “cục bộ hóa”.
05/12/2010(Xem: 9264)
Lịch sử nhân loại nhìn từ một khía cạnh nào đó chính là lịch sử của tư duy con người. Các biến cố lịch sử, chiến tranh, sự tiến bộ về mọi mặt, các thảm kịch..., tất cả phản ảnh bản chất hoặc tiêu cực hoặc tích cực của tư duy con người. Các danh nhân, các nhà cách mạng, các tư tưởng gia..., đều là các vĩ nhân đại diện cho những tư duy tích cực. Thảm kịch, bạo ngược, chiến tranh tàn khốc... phát sinh từ những tư duy tiêu cực.
16/11/2010(Xem: 11463)
Hiện nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết, tranh cãi về bệnh tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài này. Các chuyên gia về sức khỏe thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối với người bình thường họ sẽ rất bối rối.
16/11/2010(Xem: 16297)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
12/11/2010(Xem: 17873)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời. Khi quán chiếu lại, tôi thấy rất nhiều điều tưởng chừng không vượt qua nổi, chẳng những chỉ vì không thể tránh, lại còn không sao có được một giải pháp thuận lợi.
27/10/2010(Xem: 12933)
Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ, xem như mắc tội vậy. Phật không bao giờ cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc, mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.
23/10/2010(Xem: 11965)
Trước hết, có lẽ tôi cần phải thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về thuyết Tiến Hóa. Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật thiên nhiên trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được kiểm chứng, phát triển, từ đó giải thích được nhiều điều trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay, thuyết Tiến Hóa bao trùm rất nhiều bộ môn khoa học. Do đó, không ai có thể tự cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa. Một khó khăn khác tôi vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ chuyên môn mà tôi không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt hoặc không biết là đã được dịch ra tiếng Việt. Vì những lý do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự hạn trong chủ đề
20/10/2010(Xem: 6286)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
19/10/2010(Xem: 4146)
Đạo Phật tự thân là đạo giác ngộ, hay nói cách khác là con đường dẫn đến cảnh giới thánh trí tự chứng viên mãn và siêu việt. Viên mãn vì thánh trí ấy phổ châu khắp ba thời mười phương, là căn thân của vạn pháp, không gì lớn hơn, không gì nhỏ bằng. Siêu việt vì thánh trí tự chứng ấy đã nhổ sạch gốc rễ của vô minh vốn là mầm mống của phiền não và đau khổ,
11/10/2010(Xem: 5404)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]