Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và hành hương

02/01/201105:16(Xem: 7492)
Phật giáo và hành hương
Pagoda_2
Người xưa nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Con người có mặt trong cuộc sống, ngoài việc phải nắm bắt thời gian, giành lấy thời gian, tận dụng thời gian, làm nhiều việc mang lại lợi ích cho xã hội, ngoài mục đích kéo dài tuổi thọ về mặt thời gian ra, còn cần phải mở rộng phạm vi đời sống, mở mang không gian tâm linh, để bản thân có thể hòa nhập vào nhân quần, hướng về cộng đồng thế giới. 
 
Du ngoạn, du lịch, hành hương chính là một vài trong những phương cách làm tăng sự hiểu biết, khám phá nhiều lĩnh vực của đời sống. Du lịch là ngành công nghiệp không khói. Phát triển du ngoạn du lịch để thu được nhiều ngoại tệ, đã trở thành chính sách quan trọng đối với sự thịnh vượng kinh tế của các nước trên khắp thế giới thời cận đại. Cho dù đó là một cảnh quan thiên nhiên, một di tích văn vật, văn hóa lịch sử, hay nhờ vào kinh tế thương mại phồn thịnh…, tất cả đều đã trở thành nguồn tài nguyên phát triển du lịch của các quốc gia trên khắp thế giới.

Trong sự nghiệp du lịch thì cảnh quan về hang động và chùa tháp của Phật giáo có thể coi là phong phú bậc nhất về cái đẹp nghệ thuật tôn giáo, cho nên tài nguyên cho các hoạt động thăm viếng ngoạn cảnh thật dồi dào. Người xưa đã có câu “Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa” (Những ngọn núi nổi tiếng dưới bầu trời này hầu hết là thuộc về các người tu hành). 
 
Thật vậy, từ xưa hầu hết tự viện của Phật giáo đều được xây dựng ở những nơi núi non trùng điệp, phong cảnh tú lệ. Kiến trúc tự viện vốn đã rất lộng lẫy xinh đẹp, lại lồng với vẻ đẹp tự nhiên của cổ thụ cao ngút, cho nên “danh sơn cổ sát”, “già lam thắng địa”, luôn là điểm đến đẹp nhất mà người đời thường mong muốn tìm tới thưởng thức, chiêm ngưỡng trong những ngày nghỉ ngơi giải trí. 

Đến tự viện của Phật giáo hành hương ngoạn cảnh, ngoài việc trực tiếp mắt thấy tai nghe, trong tâm hồn còn có những cảm nhận sâu sắc về sự khác biệt giữa chốn trần tục xô bồ náo nhiệt với chốn u nhã, tịch tĩnh. Từ đây, tinh thần được nâng cao không gì sánh bằng. Giáo nghĩa, nghi quy, văn hóa, di tích… của Phật giáo, đều có thể mang lại sự khơi gợi, mở rộng tư tưởng, tầm nhìn cho con người, có thể làm cho thân tâm an định, nhẹ nhõm. Ngay cả trong trường hợp người không có tín ngưỡng Phật giáo, cũng có thể yêu thích những chốn an tịnh, hòa nhã này.

Trước đây có những chùa chiền đạo tràng, kiến trúc rất cao hiểm, đặc biệt, rất có giá trị tham quan, ví dụ như chùa Huyền Không ở Sơn Tây, xứng danh là một ngôi tự viện treo bên sườn núi, mỏm đá nhấp nhô, nhìn xuống thung lũng sâu thẳm, hơn ba mươi tòa khác nhau như điện, đường, lâu, các, đan xen vào nhau, phối hợp hài hòa, có tính nghệ thuật cao, hệt như cung vàng điện ngọc đến từ hư không.

Hang đá Mạch Tích Sơn (1)  có quy mô to lớn, các hang động được phân bố rải rác trên các vách núi, đường núi hiểm trở được mở ra trên những vách cheo leo, uốn lượn quanh co, khiến người thưởng thức cảm thấy thỏa mãn; Đại Phật ở huyện Lạc Sơn tỉnh Tứ Xuyên, chạm đục trên các vách đá hiểm trở, cao ngút sừng sững, khí thế hùng vĩ, để lại thánh dung muôn thuở, nhìn xuống chúng sinh; ngôi điện Phật bằng đồng (tục gọi là Kim điện) của Kim Đỉnh núi Nga Mi, được vận chuyển đến mãi tận từ Hồ Nam, các cảnh quan khác như bích họa Đôn Hoàng, tạc đá Vân Cương, tứ đại danh sơn, kỳ quan Ngũ Nhạc, cho đến chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, Thiên Phật Nhai ở núi Thê Hà Nam Kinh, Cung Bố- đạt-lạp (the Potala Palace) ở Tây Tạng, Phật Quang Sơn ở Đài Loan, chùa Ngô Ca (Vrah Vishnulok) ở Cambodia, Phù-đồ-bà-la (Borobudur, cũng gọi là Thiên Phật Đàn) ở Indonesia, tháp Đại Kim ở Miến Điện, chùa Phật Nha ở Tích Lan… , mỗi nơi đều ẩn chứa tính độc đáo, bản sắc rất riêng mang màu sắc tín ngưỡng văn hóa của họ.

Những giá trị nghệ thuật về chạm trổ hang đá, hội họa tượng Phật, kiến trúc chùa tháp, đến nay trở thành “báu vật” của toàn nhân loại. Ông Trương Kỳ Vân (1900 -1985), người sáng lập Trường Đại học Văn hóa Trung Quốc tại Đài Loan nói rằng: Phật giáo Trung Quốc trước đây thiếu việc hoằng pháp giảng kinh, tuy vậy vẫn có nhiều người tin theo Phật giáo, là bởi vì các công trình kiến trúc có chùa chiền, có Phật tượng, có nội hàm tuyên thuyết pháp âm hòa bình cho chúng sinh, cho nên có thể giáo hóa hướng dẫn nhân tâm.

Những phát triển về sự nghiệp ngành du lịch của các nước trên khắp thế giới ngày nay, không chỉ các thánh địa Phật giáo Trung Quốc mới có khách tham quan nhiều như cá diếc qua sông, mà các nơi khác như Nhật Bản (2), Hàn Quốc (3), Thái Lan (4),… cũng là điểm du lịch có lượng người hành hương như dệt, trong đó đặc biệt nhất là quốc gia Ấn Độ – nơi mà Đức Phật từng có nhân duyên hoằng hóa sâu sắc nhất có lượng người hành hương rất lớn: như vườn Lâm-tì-ni (Lumbini) nơi Đức Phật ra đời, cây cổ thụ ở Bồ- đề-già-gia (Buddhagaya) là nơi Đức Phật giác ngộ đạo giải thoát, vườn Lộc dã (Mrgadava) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cho đến thành Câu-thi na-la (Kuśinagara) nơi Đức Phật nhập Niết-bàn (Nirvāna), hay tinh xá Kỳ Viên (Jetavana Vihara), thành Ngọc Xá (Rajagrha), A-khương- đạt (Ajanta), núi Linh Thứu (Gijjhakuta), tinh xá Trúc Lâm (Veṇuvana), đều là thánh địa Phật giáo khiến con người luôn ngưỡng vọng hướng về.

Tiếp đó, đến Hàn Quốc thăm viếng chùa Tam Bảo có lịch sử trên ngàn năm, như chùa Phật Bảo Thông Độ, chùa Pháp Bảo Hải Ấn, chùa Tăng Bảo Tùng Quảng; ngoài ra còn có chùa Quan Âm Đạo Tràng Lạc Sơn gần biển, cũng đặc biệt có nét hiện đại độc đáo. Đến Nhật Bản tham quan các chùa Đường Chiêu Đề, chùa Dược Sư, chùa Đông Đại ở cố đô Nại Lương được ghi chép trong lịch sử, đều là danh lam chan chứa phong cách cổ, trứ danh cả thế giới. Đến Thái Lan thì có chùa Ngọc Phật, chùa Đại Lý Thạch, chùa Trịnh Ngọc, chùa Pháp Thân, nhất là tiện đường dạo chơi bên bờ sông Mê Nam (Chao Phray, một nhánh của dòng Mekong), càng có thể làm cho cuộc lữ trình của du khách thêm phần thơ mộng và ý vị.

Với một hành giả Phật giáo, hành cước du phương chính là một kiểu đi đây đi đó tham học khắp mọi phương xứ, một hình thức tầm sư phỏng đạo, cũng là một sự trải nghiệm trong đời sống. Mỗi lúc đến một thắng địa ở một quốc gia nào đó, đều cần phải dùng “tâm” để tìm hiểu phong tục tập quán, văn hóa lịch sử, phương thức sinh hoạt, một mặt mở rộng tầm nhìn, mặt khác quán chiếu tự tâm, bởi vì non xanh nước biếc, tùng lâm thảo mộc…, không chỗ nào không bao hàm trong một bộ đại thư “sinh mệnh” này; “vũ trụ đại thiên, nhân gian bách thái”, không một “ngõ ngách” nào không phải là cơ hội để thực hành tham thiền ngộ đạo. Cho nên, du ngoạn du lịch hành hương cũng có thể nói là thông qua học tập quan sát, đạt được quang minh, tâm khai ý tỏ. „

Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Đại sư Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 43 – 46

1. Còn có tên là Mạch Tích Nhai, một trong những hang đá nổi tiếng của Trung Quốc; nằm ở phía Đông nam, cách thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc khoảng 45km.

2. Nhật Bản lấy Phật giáo làm quốc giáo, khắp nơi đều có thể thấy tự viện Phật giáo trang nghiêm, ví dụ: Kiến trúc chùa Dược Sư giống như long cung, chùa Pháp Long là kiến trúc được tạo nên bằng gỗ cổ xưa nhất hiện đang tồn tại trên thế giới hiện nay, Kim Đường của chùa Đông Đại là đại Phật điện được tạo bằng gỗ lớn nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra, còn có rất nhiều tự viện, đạo tràng có giá trị du lịch, hành hương khác, cụ thể như chùa Đường Chiêu Đề, chùa Hưng Phước, chùa Vĩnh Bình, chùa Cao Sơn, chùa Bổn Nguyện, chùa Tổng Trì, chùa Hiếu Ân, chùa Tứ Thiên Vương, chùa Kim Các, chùa Trung Quan, chùa Thanh Thủy…

3. Phật giáo Hàn Quốc được truyền vào từ Trung Quốc trong khoảng năm 327 Công nguyên, đến nay đã có hơn 1.600 năm, tín ngưỡng Phật giáo đã đặt nền móng văn hóa bền vững cho xứ Kim chi, cũng đã lưu lại nhiều tài nguyên du lịch hành hương cho xứ sở này.

4. Thái Lan là quốc gia Phật giáo “kim bích huy hoàng” (nguy nga lộng lẫy), tự viện là cột mốc quan trọng nhất Thái Lan, chỉ tính riêng Băng-cốc đã có tới 300 ngôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2021(Xem: 14971)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11803)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16538)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12518)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7778)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19967)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11622)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9098)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10280)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11821)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567