Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan Niệm Về Kinh Tế Trong Phật Giáo

30/08/201017:06(Xem: 3927)
Quan Niệm Về Kinh Tế Trong Phật Giáo
Phat_Thich_Ca
QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ TRONG PHẬT GIÁO
HT. Thích Trí Quảng
none
none

Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản.

Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
Và sang đến thời kỳ mà đời sống của bộ tộc phát triển, các bộ tộc mạnh bắt đầu đi thôn tính những bộ tộc yếu kém hơn để chiếm đoạt những nguồn lợi của thiên nhiên mà địa phương họ không có. Từ đó, mới hình thành các quốc gia ở thời kỳ phong kiến, khi muốn thể hiện sức mạnh của họ, muốn làm bá chủ các nước khác, thì vấn đề phát triển kinh tế quốc gia tất yếu được coi là quan trọng.

Đức Phật đã ra đời trong thời kỳ hình thành và phát triển của các quốc gia trên quả địa cầu này. Có thể nói vấn đề kinh tế ở thời kỳ đó đã được đặt lên hàng đầu, vì nước nào có tài nguyên thiên nhiên phong phú là nước đó giàu có; nước nào có dân số đông mới mạnh. Với sự giàu có và đông dân, nước đó mới có thể tổ chức những đoàn quân viễn chinh đi xâm chiếm các nước khác, để cướp bóc tài sản của con người và tài sản thiên nhiên ở nước khác về làm giàu cho nước họ. Bấy giờ, sức mạnh về người và của cải đóng vai trò quyết định cho sự bành trướng lãnh thổ quốc gia cả trong địa lý lẫn kinh tế, mà ngày nay chúng ta thường nói là sức người, sức của. Vì thế, chúng ta thấy rõ mọi quốc gia lúc đó đều chủ trương phát triển dân số và phát triển kinh tế để phục vụ cho mục tiêu xâm lăng và làm cho nước họ trở thành giàu có, hùng mạnh.

Đức Phật sống trong thời kỳ này, Ngài nhận thấy tình trạng bất công của xã hội như vậy, mới nói rằng chỉ vì miếng ăn mà các loài tranh giành, giết hại lẫn nhau. Vì vậy, Ngài luôn suy tư để tìm cách sống có thể đem lại sự an lành cho mọi người và tất cả các loài. Chủ trương của Đức Phật là làm sao phát triển đời sống của cá nhân mà không làm tổn hại đến người khác, làm sao phát triển đời sống của con người mà không làm tổn hại đến các loài sinh vật khác, cho đến sự sống của các loài vô tình như hoa lá, cỏ cây cũng cần được tôn trọng, bảo vệ. Đó chính là lý do mà Đức Phật của chúng ta đã xuất gia và dành hết thì giờ cùng tâm sức trong cuộc sống của Ngài để tìm ra phương thức hóa giải mọi sự xung đột, sát hại giữa con người với nhau và giữa con người với muôn loài sống chung trên trái đất này.

Với mục tiêu đặt ra như vậy, sau khi thành đạo, Đức Phật đã đi khắp mọi nơi của miền Ngũ hà ở Ấn Độ để giảng dạy chân lý mà Ngài đã tìm ra. Những người may mắn gặp Phật và tiếp nhận được sự giáo hóa của Ngài đã thay đổi được cuộc sống vật chất lẫn tinh thần và ngày càng trở thành tốt đẹp, giáo lý của Ngài cũng giúp cho họ quản lý được xã hội an lành, phát triển hơn. Chúng ta còn nhớ lịch sử đã ghi lại cuộc hòa giải thành công một cách thật nhẹ nhàng của Đức Phật . Hai quốc gia tranh giành chủ quyền về con sông giữa hai nước và cuộc xung đột lên cao điểm đến độ cả hai nước đều dàn binh lính để sẵn sàng giết nhau. May thay, Đức Phật đã xuất hiện và bóng mát an lành của ngài đã xóa tan lửa sân hận, cùng với những lời khuyên sáng suốt và tràn đầy từ ái của Ngài đã khiến cho hai đạo quân buông bỏ vũ khí, chiến tranh được dập tắt. Nghe theo lời Phật dạy, cả hai nước đều vui vẻ cùng sử dụng chung dòng nước của con sông.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, tư tưởng của Ngài được phân chia thành hai bộ phái là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng tọa bộ đi theo con đường tiến tới Niết bàn để thực hiện cho được lý tưởng của cuộc sống. Đó là nếp sống không làm tổn hại các sinh vật khác và cũng khuyên mọi người nên thực hiện cuộc sống phát triển bản thân mà không xâm hại đến những người khác, đến các loài khác. Đây chính là quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Với nền tảng của nếp sống như vậy, những hành giả của Thượng tọa bộ hạn chế tối đa đời sống đòi hỏi thú vui vật chất để có được niềm vui tinh thần và phát triển niềm an lạc cao nhất là Niết bàn.
Bộ phái thứ hai là Đại chúng bộ với tư tưởng tiến bộ cho rằng nếu đời sống cá nhân của người tu đưa đến giải thoát theo phương cách như vậy, mà không quan tâm đến mọi sinh hoạt của những người xung quanh hoàn toàn khác với mình, thì giải thoát này mang tính cách tiêu cực và đôi khi còn bị tác động ngược lại của xã hội khiến cho họ không thể giải thoát được.
Với lý giải này, tư tưởng Phật giáo phát triển đã chủ trương rằng giải thoát cho người là giải thoát cho mình, làm cho xã hội tốt đẹp là làm cho mình tốt đẹp. Từ đó, Phật giáo Đại thừa phát triển đời sống hành Bồ tát đạo, tức lo phục vụ mọi người, giúp đỡ mọi người có đời sống vật chất phát triển và tinh thần thăng hoa mới chính là giải thoát thực sự và lâu dài của hành giả đi theo dấu chân Phật.

Thể hiện tư tưởng này là các bộ kinh như Bảo Tích, Duy Ma, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v… đều đề cao vấn đề Bồ tát đạo, nghĩa là xây dựng một xã hội tốt đẹp. Nói cách khác, lý tưởng của Bồ tát đạo bấy giờ là thiết lập cõi Tịnh độ ở nhân gian, tức phát triển đời sống vật chất và tinh thần đến mức độ cao nhất, mà không gây tác hại cho mọi người và cũng không làm tổn hại sự sống của tất cả các loài cùng hiện hữu trên hành tinh này.

Nói theo ngày nay, mô hình Tịnh độ của Bồ tát đề ra là xây dựng xã hội văn minh, giàu có, nhưng không gây ra ảnh hưởng độc hại đến mọi người và không làm hư hại môi trường sống của con người, của muôn loài và của trái đất.
Một xã hội tốt đẹp cần có đủ bốn yếu tố quan trọng là không khí trong lành cho mọi người hít thở, không gây ra bệnh tật, đất đai sạch và nước sạch để con người sống khỏe mạnh và điều quan trọng không kém là tâm hồn con người cũng trong sạch.

Các Bồ tát dấn thân thực hiện lý tưởng này, thì tất cả mọi người trong xã hội cũng phải đồng tâm hiệp lực trong việc xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh như vậy. Vì chỉ có một người xây dựng mà người khác phá thì không có việc nào thành tựu được.

Tinh thần Bồ tát đạo theo hướng tích cực xây dựng xã hội như vậy đã thể hiện chiều hướng ngược lại với tư tưởng tiêu cực nghĩ rằng chỉ lo giải thoát cho riêng mình thôi, còn ai làm gì cũng được. Nhưng thực tế cuộc sống ngày nay cho thấy rõ sự ảnh hưởng cộng tồn mật thiết giữa con người với nhau, giữa con người với các loài và giữa con người với môi trường. Nếu để cho những người nhân danh phát triển kinh tế toàn quyền khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng trục lợi, ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của cá nhân, của quốc gia họ, gây tác hại cho không khí, đất đai, sông biển bị dơ bẩn, ô nhiễm bởi các chất độc hại của nhà máy thải ra, hoặc khai thác cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên gây ảnh hưởng đến môi sinh, thì chắc chắn sự sống của chúng ta cũng bị đe dọa.

Thấm nhuần tinh hoa của Phật dạy, rằng muôn sự muôn vật trên hành tinh này có mối tương quan tương duyên sâu xa, có sự cộng tồn hỗ tương mật thiết, chúng ta hiểu loài người hay bất cứ loài nào đều không thể sống tách biệt mà an ổn được. Vì thế, Phật giáo Đại thừa luôn để tâm đến sự phát triển môi trường, phát triển thiên nhiên, phát triển xã hội để giúp cho đời sống kinh tế của mọi người, của đất nước được nâng cao. Điển hình là kinh Đại Bảo Tích đã giới thiệu pháp hội Vô Lượng Thọ nói về công hạnh của Đức Phật Di Đà và mô hình tốt đẹp tuyệt đối của thế giới Cực Lạc ở Tây phương do Ngài xây dựng và điều hành.

Đức Phật Di Đà đã thiết kế thế giới Cực Lạc có đầy đủ những tiện nghi hoàn hảo nhất cho cư dân sống ở đó. Thật vậy, với hệ thống Liên Hoa hóa sinh, không phải thai sinh, người dân ở Cực Lạc sinh ra từ hoa sen đều có thân thể khỏe mạnh, tinh khiết, vô nhiễm. Ngoài ra, người dân ở Cực Lạc được nuôi dưỡng bằng nước bát công đức, nghĩa là tâm đại bi thuần tịnh của Phật Di Đà tẩy sạch trần tâm của họ và nuôi lớn tâm Bồ đề của họ, tác động cho họ được an lạc, thanh tịnh. Đến khi họ chứng được Vô sinh Pháp nhẫn, tức đã chuyển hóa từ thể xác đến tâm lý hoàn toàn tốt lành, thì họ sinh ra với đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, và được sinh hoạt với Thánh chúng là những người có hiểu biết cao tột, có đạo đức vô cùng.

Ngoài ra, Phật Di Đà cũng tạo môi trường sống trong lành cho người dân ở Cực Lạc, ở đó đất bằng lưu ly, bảy hàng cây báu, bảy màn lưới giăng … tiêu biểu cho một thế giới thuần khiết với đất sạch, không khí sạch và nước sạch, v.v… Cũng có các loài chim như bạch hạc, khổng tước, ca lăng tần già… nói được pháp Phật, giúp cho người dân nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng; nghĩa là làm cho họ phát chí hướng thượng, nỗ lực phát huy trí tuệ và đức hạnh như Phật, có hiểu biết chính xác và sống hòa hợp thanh tịnh, làm việc ích lợi cho tập thể.

Ngày đêm ở Cực Lạc chỉ nghe nhạc trời, thấy hoa trời, bất cứ âm thanh và hình ảnh nào ở Cực Lạc cũng tác động cho người dân phấn đấu thăng hoa; trong khi ngành công nghệ phim ảnh và ca nhạc của một số nước văn minh, giàu có ngày nay được khai thác theo hướng xấu. Họ thu được lợi nhuận rất nhiều và dĩ nhiên sự phát triển sức mạnh kinh tế của lĩnh vực hoạt động giải trí này rất lớn. Nhưng sự phát triển đời sống vật chất và sự hưởng thụ tinh thần theo hướng không lành mạnh, sa đọa như vậy đã gây tác hại, nguy hiểm vô cùng cho giới thanh thiếu niên và cũng tạo ra sự bất an cho xã hội. Thực tế cho thấy phim ảnh và ca nhạc, múa hát đồi trụy đã gây kích động, bạo lực, bạo hành cho người nghe, người xem, đã tạo thành một lớp người hung ác thường sát hại người khác, thích tàn phá mọi thứ, thích gây rối loạn, bạo động trong xã hội. Rõ ràng một sự phát triển chỉ nghiêng về việc thu lợi nhuận thì kết quả của nó luôn luôn song hành với sự tác hại, một sự tác hại lâu dài và rộng lớn cho cả cộng đồng xã hội; nhất là lớp thế hệ trẻ. Những người chủ tương lai của đất nước mà sống cuồng loạn thì cái giá phải trả cho sự phát triển đời sống vật chất theo cách đó thật là quá đắt.

Thiết nghĩ từ thời kỳ xa xưa, Đức Phật đã xây dựng được một thế giới văn minh thực sự hoàn hảo, với cách nuôi dạy từ trong thai sen, công dân nước Cực Lạc sinh ra là đã có thân tâm toàn thiện. Kế đến, được sống trong môi trường trong sạch hoàn toàn, nên tuổi thọ của người dân ở đó nhất định phải lâu dài, và quan trọng hơn nữa là được sinh hoạt với thầy bạn đều là những bậc thượng thiện nhân hoàn toàn tốt, giỏi, thì tri thức và đạo đức chắc chắn phải được thăng hoa tối đa. Vì vậy, có thể khẳng định rằng Cực Lạc là mô hình thế giới phát triển tuyệt vời nhất, ở đó chỉ có cuộc sống tốt đẹp, thánh thiện; mọi bóng dáng của nghèo đói, ngu dốt, sa đọa, tranh chấp, thù hận, khổ đau, tội ác, trộm cướp, giết chóc, chiến tranh … còn không có cái tên, chứ nói chi đến hiện diện. Vì thế, chư Phật mười phương đều khen ngợi công đức của Phật Di Đà và thế giới Cực Lạc.

Tóm lại, Phật giáo không hề tiêu cực; trái lại, theo dòng chảy miên viễn của tâm từ bi và trí tuệ từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau, Phật giáo đã, đang và sẽ mãi mãi tích cực xây dựng một cộng đồng xã hội phát triển lành mạnh cho mọi người, xây dựng một cộng đồng thế giới hòa bình, hòa hợp, an vui cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, xây dựng một ngôi nhà chung thân thương nối kết cuộc sống của loài người và muôn loài cùng cộng tồn, cùng phát triển theo hướng tốt đẹp nhất.

Tất cả mọi sự xung đột, thù hận, sát hại, tàn phá, chiến tranh đều được hóa giải bởi đôi tay tình thương, trái tim nhân ái và khối óc minh mẫn vì lợi ích của mọi người, mọi loài. Và từ đó, muôn người, muôn loài đều được hưởng thụ hợp lý mọi của cải do chính họ làm ra và tận hưởng một cách công bằng mọi của cải mà thiên nhiên đã hào phóng để đặt trên hành tinh này.

Xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần tốt đẹp cho mọi người, mọi loài, ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này luôn luôn là mục tiêu hướng đến trong mọi sinh hoạt của hành giả Phật giáo Đại thừa. Đó chính là mở cửa Cực Lạc tại chốn Ta bà, xây dựng thế giới Cực Lạc cho mọi người ngay tại cuộc sống nhân gian này.

HT. Thích Trí Quảng

04-05-2008 12:43:43

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2021(Xem: 4135)
Tôi bắt đầu vào Đại học để học Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, trên đường theo học các lớp giáo lý sau này. Tại Đại học Ohio Hoa Kỳ, tôi tham gia lớp học về các tôn giáo thế giới từ tác giả, triết gia nổi tiếng, giáo sư triết học thâm niên tại Đại học Bang Ohio, Giáo sư Troy Organ, một Cơ Đốc nhân thực hành, người tự hào về việc giảng dạy mỗi tôn giáo từ quan điểm của một người tín ngưỡng.
17/11/2021(Xem: 26580)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22857)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 14276)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 15956)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15764)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18461)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 18426)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 22180)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 15078)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]