Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHẦN IV: KẾT LUẬN

03/05/201317:45(Xem: 4784)
PHẦN IV: KẾT LUẬN


Vài nét về Tâm lý học phổ thông

và Tâm lý học Phật giáo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

NS Thích Nữ Hương Nhũ

---o0o---

PHẦN BỐN

KẾT LUẬN

ĐẠO PHẬT VỚI LỐI SỐNG HƯỚNG NỘI TÂM VÀ BIỆN TÂM

Qua phần trình bày của luận văn tốt nghiệp chúng ta có thể nhận thấy: Tâm lý học phổ thông là một trong những khoa học quan trọng về con người. Theo quan điểm của triết học Mac Lê Nin thì tâm lý học phổ thông sẽ giải quyết các vấn đề về con người và xã hội theo cuộc sống trên thế gian. Mọi giá trị tinh thần được đề cập đến ở phạm vi tương đối của một kiếp người. Đối với Đức Phật, vấn đề tôn giáo và nguồn cội của tôn giáo không phải là siêu hình, nhưng chính là vấn đề tâm lý, trí thức và trí tuệ. Phật giáo quan niệm hoạt động tâm thức chỉ là một dòng trôi chảy của các duyên. Cuộc sống là một tiến trình miên man không ngừng trôi và cứ như thế kiếp này sang kiếp khác. Chính vì lẽ đó tâm lý học Phật giáo chỉ nhằm nói về bản chất của tâm, phương pháp thanh lọc tâm. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khúc mắc trong tâm thức là phương pháp tự quán chiếu. Do vậy, Đức Phật không sẵn sàng giải đáp những thắc mắc như: Thế gian có trường tồn vĩnh cửu hay không? Thế gian có vô cùng vô tận hay không? Nguồn gốc của thế gian là gì ?...Đối với những câu hỏi và những thắc mắc xem hình như quan trọng nhưng không bổ ích ấy. Im lặng là giải đáp tốt đẹp nhất. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khó khăn là nhìn sâu trở về nội tâm. Đức Phật hướng dẫn ta vào đường lối phân biệt và khảo sát tâm lý cũng nhằm giúp ta phát triển năng lực và phẩm chất nội tâm. Đức Phật dạy: 

Chính tự các con phải kiên trì tinh tấn và thành tựu giải thoát cho chính mình. Chư Phật chỉ rọi sáng con đường” [1]

Do đó, con người cần phải khảo sát tỉ mỉ cái tâm của chính mình. Để thông hiểu các tâm ý, tư tưởng hoạt động ra sao? Chúng phát sanh và hoại diệt thế nào? Với mục đích chế ngự tâm, điều phục tâm, vì tâm vốn dong ruổi theo các dục vọng trên đời; bằng cách chuyên tâm vào phát triển Tứ Chánh Cần:

-Ngăn ngừa những tư tưởng xấu, các bất thiện pháp chưa phát sanh.

-Khắc phục, dứt bỏ các tư tưởng xấu đã phát sanh

-Làm phát khởi những tư tưởng tốt, thiện pháp chưa phát sanh

-Bảo trì và gìn giữ những tư tưởng tốt đã phát sanh.

Đó chính là chức năng của Chánh Tinh tấn nhằm dẫn đến nội tâm vắng lặng và trong sạch qua pháp hành thiền. Thiện hay ác là thiện ác từ trong tâm, trong ý nghĩ ngay khi tâm ấy, ý nghĩ ấy chưa bộc lộ qua lời nói vàha2nh động nơi thân. Từ trong tâm khởi lên ý nghĩ ác mà không được sự ngăn chặn kịp thời, thì sớm muộn lời nói ác và hành động ác cũng nối tiếp theo sau, dẫn tới quả khổ không thể tránh khỏi.

Hàng ngày chúng ta phải tu tập tâm, quán sát tâm, phòng hộ tâm, bất cứ một ý nghĩ bất thiện nào khởi lên đều phải được lập tức đoạn trừ. Nhờ vậy, dần dần tâm ta sẽ trở nên thuần thiện và trong sáng. Tâm thiện thì sống hạnh phúc an lạc. Tâm sán thì thấy được vạn pháp như thật- thấy được Đạo, thấy được chân lý. Những gì làm cho tâm ta mời tối? Đó là ý nghĩ và hành động bất thiện, những dục vọng thấp hèn. Nếu thường xuyên tu tập tâm xa lìa các ác, bất thiện pháp, xa lìa tham dục thì tâm sẽ sáng chói như “trăng thoát mây che”. Muốn đoạn trù và xa lìa các dục chúng ta phải biết các dục bắt nguồn từ tham sân si tác động vào thân tâm của ta như thế nào. Đức Phật đã dạy “vị ngọt” của các dục là niềm vui do sự thoả mãn dục vọng tạm thời:

Này các Tỷ kheo, thế nào là vị ngọt của các dục? Các sắc pháp do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý....hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn nhận thức, các hương do tỷ căn nhận thức, các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý....hấp dẫn”[2]

Nhưng dục vọng vô cùng tạm bợ và nguy hiểm, dẫu có đạt được cũng như người uống nước muối, càng uống càng thêm khát. Do vậy Đức Phật khuyên chúng ta xuất ly các dục, thay thế “vị ngọt” tạm bợ và thấp hèn của dục bằng niềm vui giải thoát của lòng từ và thiền định, đảm bảo cho chúng ta một trạng thái tâm hồn an nhiên tự tại. Mục đích của Thiền tập là nhằm đạt tới một sự bình tĩnh nội tâm thường xuyên và ngày càng đi sâu vào tâm thức nhằm để thấy rõ bản thân mình và làm chủ bản thân mình.

Đức Phật dạy trong kinh Tạp A Hàm: Đã từ lâu, tâm của con người bị tham sân si làm ô nhiễm. Bợn nhơ tinh thần làm cho tâm của chúng sanh ô nhiễm. Cần gội rửa tâm làm cho tâm trong sạch.

Lối sống của người Phật tử là một tiến trình tích cực nhằm thanh lọc thân, khẩu, ý. Đó là lối tự thanh lọc, tự trau dồi, tự phát triển nhằm tự mình chứng ngộ. Điểm chính yếu là thành quả thâu đạt được chứ không phải là lối tranh luận triết học hay trừu tượng hợp lý. Pháp hành Thiền trong Phật giáo không nhằm hội nhập với một Đấng tối thượng cũng không nhằm chứng đạt những chứng nghiệm huyền bí mà nhằm thành tựu trạng thái tâm vắng lặng và tuệ minh sát, tiến tới mục tiêu duy nhất là tâm giải thoát ra khỏi mọi trói buộc. Lối sống của Đạo Phật là lối sống tôn giáo hướng nội và biện tâm. Hướng nội là để quân bình tâm, quân bình hướng ngoại, chứ không phải từ bỏ hướng ngoại. Lý do là vì nội tâm của con người chứa đầy những bí ẩn mà con người không hiểu, không biết tới mức phủ nhận tâm cho rằng chỉ có vật chất. Bộ não tiết ra tư tưởng như gan tiết ra mật (le cerveau sécrète là pensée comme le foie sécrete là bile), tuy rằng chưa có nhà khoa học nào phát hiện ra cơ chế bộ óc tiết ra tư tưởng như thế nào. Do đó mà trong một thời gian dài, môn tâm lý học đã bị coi nhẹ ở phương Tây- Một môn khoa học mà theo sự đánh giá chung của người phương Tây vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, ấu trĩ. Như lời phê phán của một nhà báo Mỹ (được trich dẫn trong một bài báo):

Về môn vật lý học, người Mỹ đang ở thời đại nguyên tử, nhưng về môn tâm lý học, người Mỹ đang ở thời đại đồ đá”

Nếu chúng ta không biết tự mình chế ngự tâm, cân bằng hai xu thế hướng nội và hướng ngoại thì hậu quả là ta không làm chủ được bản thân mình sẽ bị ngoại cảnh chi phối. Sự vật khó mà nhận thức như là nó thật sự đang là, mà sai lầm qua hoả mù của nội tâm dao động mạnh. Thậm chí phản ứng tâm lý có thể dẫn đến những hành động điên đảo, xuất phát từ những xung động bản năng mãnh liệt và đáng sợ. Vấn đề này thường xảy ra ở các nền văn hoá hữu ngã.

Lối sống tôn giáo hướng nôi nếu được thực hành thường xuyên và có ý thức sẽ giúp chúng ta luôn luôn tỉnh táo, điều hoà được thân tâm, điều hoà tốt đẹp mối quan hệ giữa con người và xã hội. Phương pháp hành thiền của Phật giáo cũng nhằm mục đích đó.

Từ ngữ “biện tâm” ở đây nhấn mạnh lối sống của người Phật Tử không chỉ là hướng nội mà còn phải biện tâm, nghĩa là tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, điều hoà tâm, biết dụng tâm một cách tốt đẹp. Từ ngữ “biện tâm” được vua Trần Thái Tông, một nhà nghiên cứu Phật học lỗi lạc thể hiện trong tác phẩm “Khoá Hư Lục” với nội dung như sau:

Mặc vấn đại ẩn, tiểu ẩn, bất câu tăng tục, hưu biệt tại gia, xuất gia, chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tư trước tướng? Nghĩa là”:”Không kể là sống ẩn dật trên núi hay là sống giũa thị thành, không kể là tăng hay tục, không phân biệt tại gia hay xuất gia, chỉ cốt biện tâm, vốn đã không có phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng?”

Đạo Phật thật sự là đạo bình đẳng để tất cả mọi người có thể nương theo tu học. Cốt yếu của sự tu hành là hướng nội, biện tâm, tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, sử dụng tâm luôn ở trạng thái chú tâm tỉnh giác. Con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết điều phục tâm mình để đạt an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại.

“Người tâm không ái dục,

Không bị sân nhuế hành

Vượt trên mọi thiện ác

Tỉnh giác được an vui” [3]

Là người trí phải biết điều hoà tâm, làm chủ tâm mình. Phải biết rõ sự sinh khởi, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của từng trạng thái tâm thức khởi lên dù rất vi tế. Đức Phật không thể nào được cầu thấy qua sắc tướng, hình ảnh hay được ban phúc giáng hoạ như bất kỳ một đấng Thần linh nào. Chỉ có sự nỗ lực tu tập, với thiền định, với nội tâm trong sạch, vắng lặng, thoát khỏi mọi nhơ bẩn của tham sân si thì đó chính là thấy được Đức Phật. Chính vì vậy mà khi Vua Trần Thái Tông lánh len núi Yên Tử để cầu Phật thì quốc sư Viên Chứng đã nói với Vua:

Trong núi không có Phật. Phật chỉ có trong tâm. Lòng lắng mà biết thì đó là Phật, Nay nếu vua ngộ cái tâm ấy thì lập tức thành Phật, không phải khổ cầu bên ngoài”[4]

(“Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm, tâm tịch nhi trị, thị danh chân Phật. Kim bệ ngộ thử tâm, tắc lập địa thành Phật, vô khổ ngoại cầu dã”)

Xã hội chúng ta đang sống là một xã hội mà khắp nơi làn sống của vật chất thế tục đang ngự trị. Nhưng thật sự cũng có những làn sóng ngầm cũng rất mạnh mẽ đang chảy ngược lại, đó là những làn sóng của truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và đạo đức dân tộc, là làn sóng của những chân giá trị tâm linh siêu việt đạt được từ cuộc sống thiền tập, biện tâm, vị tha và vô ngã.

Trên đây là những gì của nội dung mà người viết muốn nói đến qua những đề tài luận văn: “Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo”. Vấn đề sẽ được sáng tỏ hơn nhiều nếu được khảo sát qua các công trình biên khảo khác. Phải chăng tâm lý học Phật giáo cần được đưa vào trong nội dung ngành tâm lý học của học đường ngày nay?

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

  1. Trung bộ kinh tập I. HT Minh Châu dịch. Viên Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1992

  2. Tập A Hàm tập I Thiện Siêu, HT Thanh Từ. Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1993

  3. Thi kệ Pháp Cú Kinh. Narada. Tịnh Minh dịch 1995

  4. Thích Nhất Hạnh. Vấn đề nhận thức trong duy thức học. Lá Bối 1989

  5. Thích Chơn Thiện. Phật học Khái Luận . Ban Giáo Dục Tăng Ni 1993

  6. Thích Phước Sơn. Phương pháp khoa học của duy thức. Trường CCPHVN 1995

  7. Thích Nhất Hạnh. Giảng Luận duy biểu học. Lá Bối. 1996

  8. Thích Chơn Thiện. Lý thuyết nhân tính qua Kinh Tạng Pàli. Luận án Tiến Sĩ Phật học 1996

  9. Lê Nin. Chủ nghĩa Duy Vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phe pháp. Sự thật 1963

  10. Lê Nin toàn tập. Tập 14, Nhân Dân 1957

  11. Lên Nin toàn tập tập 18. Nhân dân 1957

  12. Tâm lý học (sách giáo khoa dùng trong các trường CĐSP) Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong, Phạm Hoàng Gia, Đặng Xuân Hoài, Nguyễn Đức Minh, Trần Trọng Thuỷ 1992)

  13. Tâm lý học đại cương. ĐHSP Hà Nội 1975

  14. Tâm lý học. Thái Trí Dũng, Trân Văn Thiện, Vũ Thị Phượng. ĐHKT TP Hồ Chí Minh 1995

  15. Khoa học và nghệ thuật giao tiếp. PGS. Tiến sĩ Trần Tuấn Lộ, Tổng hợp Đồng Tháp 1995

  16. Giáo trình tâm lý học. Trần Trọng Thuỷ ĐHSP 1978

  17. Tâm lý học tập II. Bùi Ngoc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh. Trưởng ĐHSP Tp HCM 1995

  18. Bài giảng môn học Thắng pháp tập yếu luận. TT Thích Chơn Thiện

  19. Các bài giảng về bộ môn tâm lý học của GS Trần Tuấn Lộ

  20. Các bài giảng về bộ môn Tôn Giáo học. GS Minh Chi

  21. James Driver, A Dictionary of psychology, London. Penguin Books 1952

  22. Dagobert Runes. Dictionary of Phylosophy. New Jersey little field. Adams & Co USA 1963

  23. How to live without fear and worry in the present life. K.Sri Dhammanada 1995

  24. Tr. V. Murti. The central Phylosophy of Buddhism. Thích Đức Minh dịch. Phật học Viện Hải Đức.



[1]Kinh Pháp Cú câu 276

[2]Đại Kinh Khổ Uẩn. Trung Bộ kinh I Tr. 143

[3]Pháp Cú. Câu 39

[4]Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Vi tính: Đồng Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11734)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12197)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15068)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11959)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16771)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12591)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7842)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20217)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11701)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9171)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567