Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn Tự Kinh Chữ Nghĩa Đời

20/01/202416:58(Xem: 1300)
Văn Tự Kinh Chữ Nghĩa Đời





tang tang kinh dien

VĂN TỰ KINH CHỮ NGHĨA ĐỜI


 

 Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…

 Đọc, tụng kinh Phật mỗi người có lợi ích khác nhau vì mức độ thấu hiểu và thâm nhập khác nhau. Phàm người đã từng đọc, tụng kinh Phật có thể hiểu hay không, có thể nhớ hay quên…nhưng có một câu này thì ai ai cũng thuộc lòng, ai ai cũng biết. Cho dù đó là trí hay ngu, sang hay hèn, già hay trẻ… Đó là câu mở đầu thông thường trong các kinh Phật:” Ta nghe như thế này…” Câu này có vẻ đơn sơ, tầm thường, tưởng như không có gì, chẳng có ý nghĩa gì nhưng kỳ thật nó thật thâm sâu và đầy ý nghĩa, nó vô cùng vi diệu! vì nó trống rỗng  như hư không nên vô cùng vi diệu. Hư không chứa được tất cả mà hư không vẫn trống rỗng. Không thể giữ lấy hình hài, không thể nắm bắt được hư không vì thế mà vi diệu. Đem ngôn ngữ mà bình luận, phân tích, chia chẻ kinh Phật thì cũng như đem thước thợ may mà đo hư không vậy!

 “Ta” ở câu này là ai? Có thật có cái “ta” chăng? Ở nghĩa hẹp có thể hiểu là ngài Anan- người tuyên đọc lời Phật dạy, là năm trăm vị A La Hán kết tập kinh điển. Còn nghĩa rộng thì có thể hiểu là những người đọc, tụng kinh Phật, là tất cả chúng sanh trong các pháp giới, là tất cả những ai đọc kinh Phật, là tánh giác, là Phật tánh của mỗi chúng sanh…

 “Nghe” là văn, là thính tuy nhiên có nhiều cách nghe, nghe lơ đãng, nghe thoáng qua, nghe kỹ càng…Trong các cách nghe thì “Đế thính” là cách nghe sâu sắc nhất, là lắng lòng mà nghe, là tập trung toàn bộ tư tưởng tinh thần mà nghe. Ở đây nhất định là “Đế thính”! thế nhưng nghe cái gì? Nghe kinh Phật, kinh Phật vô cùng mênh mông như biển cả, cao như núi thì biết nghe từ đâu? nghe như thế nào đây?

 Chỉ nghe mỗi hai từ “ Như thị”, mà “ Như thị” còn có: Như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác…Quả thật rắc rối, hoa cả mắt, bận cả tâm thế thì làm sao mà nghe? rốt cuộc “Như thị” là cái gì? Là như thế đó! Là như vậy! là sự thật đúng như vậy, sự thật đúng như thế đó!

 Ở góc độ cạn cợt thì: Tôi lập lại đúng những lời Phật đã nói! ở góc độ rộng lớn thì như thị là: Chơn tướng của tất cả mọi vật, mọi việc nó vốn như thế!  chơn tướng ấy là gì? Là khổ-không-vô thường-vô ngã, là sanh-trụ-dị-diệt… bởi vậy mới có: Khổ-tập-diệt-đạo, mới có Bát chánh đạo, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo… Chơn tướng sự thật nó như thế nhưng vì con người, vì chúng sanh mê lầm, vì chấp chặt vào sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp, vì trói buộc trong tài-sắc-danh-thực-thùy mà triền miên khổ, luân hồi bất tận. Chỉ cần nghe “Như thị”, biết cái “Như thị” và hành cái “Như thị” thì lập tức giải thoát! Không có ai trói buộc mình, tự mình buộc mình thì cũng tự mình giải thoát cho mình. Phật - Bồ tát đã thị hiện đã chỉ bày phương cách, con đường đi; đã cho mình nghe cái “ Như thị”  vậy thì cứ “Như thị” mà hành, cứ y theo “Như thị” thì sẽ hết khổ, hết ràng buộc vậy! Con người chịu trách nhiệm với chính số phận mình, những gì mình có hôm nay là cái quả đã gieo trong quá khứ; những gì mình gieo hôm nay thì sẽ gặt nó ở ngày mai. Không có thượng đế, thần linh nào có quyền ban phước hay giáng họa cả. Ngay cả các vị trời cũng còn dính chặt vào sắc-hương-thanh… và khi hết phước cũng đọa như thường.

 Như thị là  đúng như thế đấy! chân tướng sự thật của vũ trụ, của nhân sinh nó như thế đấy! muốn hết khổ, muốn giải thoát thì cứ nghe như thế, hành như thế! sẽ đắc được giải thoát. Ai tin thì theo, không tin thì thôi. Đạo Phật không có bắt buộc, không có giáo điều, không có cực đoan… Nói theo ngôn ngữ hiện đaị thì rất tự do và dân chủ. Ai cũng có thể tin theo hoặc lìa bỏ. Ai cũng có thể hành theo và đạt được địa vị giác ngộ tối cao. Ai cũng có thể thành Phật nếu cứ nghe và hành đúng như thị! vì thế mà nghe được như thị và hành đúng như thị quả là một việc vô cùng quan trọng.

  Ta đã nghe như thế này rồi, nhưng còn “ Một thuở nọ” nghĩa là sao? một thuở nọ là thuở nào? ở đâu? ngày, tháng, năm nào? đời nào? Sao không ghi xuống cụ thể rõ ràng?  Nghe qua cứ tưởng như chuyện cổ tích:” Ngày xửa ngày xưa ở taị một làng nọ…”, “Một thuở nọ” tưởng chừng như mơ hồ, mông lung nhưng thật sự là sự vi diệu cùng cực, không thể dùng từ ngữ khác hay khái niệm khác thay được. Khi Phật thuyết pháp, thời ấy là thời đaị dân tộc bộ lạc. Ấn Độ có cả trăm quốc gia, mỗi quốc gia dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Lịch pháp chưa có, hoặc giả có thì cũng sơ khai và khác biệt vô cùng. Nếu đem năm, tháng, ngày, giờ  ghi xuống thì chết cứng và sai biệt lớn, không thể linh hoạt mà hoằng truyền sang xứ khác và truyền thừa cho đời sau. Thời gian vốn vô thuỷ vô chung, không gian vốn không đầu không cuối, quốc độ thiên sai vạn biệt. Bên này bán cầu là ngày thì bên kia là đêm. Bên này trái đất là mùa hè thì bên kia mới mùa đông…Ấy là chưa nói đến sự khác biệt giữa các cảnh giới khác nhau, những cảnh giới phi thời gian, phi không gian…Bởi vậy dùng năm, tháng, ngày, giờ là không thể được! Việc này cũng giống như Phật -Bồ tát vốn vô tướng nên có thể hiện mọi tướng, còn con người chấp chặt một tướng chết cứng nên không thể nào mà hiện tướng khác được. Vì vậy việc dùng chữ “ Một thuở nọ” là vô cùng vi diệu, vô cùng linh hoạt. Bất cứ thời nào, đời nào, quốc độ nào… Kinh Phật cũng đều khế cơ khế lý vì nó được nghe và chép vào “ Một thuở nọ”. Năm, tháng, ngày, giờ mãi sau này con người mới chế ra để cho tiện công việc và cuộc sống ( Nghĩ cũng mắc cười, con người chế ra năm, tháng, ngày,giờ rồi laị tưởng tượng thêm ra kiết-hung, tốt-xấu… để rồi mắc kẹt, dính chặt vào đó luôn)

 Sau này kinh Phật truyền đến đâu thì dịch ra ngôn ngữ xứ ấy, việc lý giải cũng có nhiều sai biệt, cộng với sự giao thoa của văn hoá bản địa mà phát sinh nhiều trường phái khác nhau. Tuy nhiên tất cả cùng chấp nhận và giữ vững cái cốt lõi: Tứ diệu đế, Bát thánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo… thì là Như thị! Một thuở nọ từ thời thế Tôn cho đến một thuở nọ chư tổ và hôm nay vẫn mãi là “Một thuở nọ”, mai sau vẫn cứ là “Một thuở nọ”, vĩnh viễn là “ Một thuở nọ”

 Ta nghe như thế này, một thuở nọ…vĩnh viễn vi diệu như thế!

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 9/24/109




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/04/2023(Xem: 2758)
Chuyên mục khám phá những điểm tương đồng giữa kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật và các khía cạnh khác nhau của công nghệ đương đại là Nguyệt san thảo luận về lĩnh vực hệ thống – thường được gọi là Tư duy hệ thống ‘khía cạnh lý thuyết’ (cách nhìn tổng thể, có tính đa chiều và mục tiêu) và Kỹ thuật hệ thống ‘khía cạnh phát triển thực tế’
12/04/2023(Xem: 3930)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
22/03/2023(Xem: 3684)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 6702)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3911)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
03/02/2023(Xem: 5927)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6639)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5600)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 14419)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18759)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567