Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư duy Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

15/04/202305:47(Xem: 4198)
Tư duy Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

phat giang phap-1

Tư duy
Hệ thống, Công nghệ, Đạo đức và Phật pháp

(Technology, Systems Thinking, Ethics, and the Dharma)

 

Chuyên mục khám phá những điểm tương đồng giữa kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật và các khía cạnh khác nhau của công nghệ đương đại là Nguyệt san thảo luận về lĩnh vực hệ thống – thường được gọi là Tư duy hệ thống ‘khía cạnh lý thuyết’ (cách nhìn tổng thể, có tính đa chiều và mục tiêu) và Kỹ thuật hệ thống ‘khía cạnh phát triển thực tế’ (kỹ thuật hệ thống là tận dụng các nguyên lý của tư duy hệ thống để tổ chức tổ hợp tri thức đó) – và một số khái niệm liên quan trong Phật pháp, nhấn mạnh sự liên quan của việc hội tụ này với tư duy đương đại, đặc biệt là liên quan đến Đạo đức trong khoa học và công nghệ.

 

Công nghệ được một số người xem là sản phẩm của phép tính và toán học. Từ các hệ thống cơ khí lớn đến cơ sở hạ tầng như tàu thủy, máy bay, cầu đường bộ, cũng như hệ thống phần mềm và phần cứng chỉ mới tồn tại trong thế kỷ trước đã cho thấy nhiều trường hợp công nghệ đang thay đổi thế giới xung quanh chúng ta theo hướng hoàn hảo hơn. Tuy nhiên, thật hữu ích khi chợt nhớ lại rằng, nhân loại có một lịch sử lâu đời, trong số đó phần lớn là bất thành văn và không có tài liệu. Lịch sử này được củng cố bởi việc sử dụng công nghệ dưới các hình thức khác nhau. Công nghệ đã tồn tại hàng nghìn năm và thuở sơ khai nó dựa trên sự sáng tạo và kỹ năng.

 

Hình 1: Đền Parthenon, biểu tượng văn hoá đỉnh cao của Hy Lạp, quần thể Acropolis của Athens là nổi tiếng nhất. Ảnh: thinkco.com

 

Theo cách nói cổ điển, từ thuật ngữ Hy Lạp technē (nghệ thuật, nghề thủ công) và logos (từ ngữ, lời nói), có nghĩa là “diễn ngôn về nghệ thuật” và lần đầu tiên xuất hiện bằng Anh ngữ vào thế kỷ 17. Ban đầu, nó chỉ được sử dụng với ý nghĩa là một cuộc thảo luận về nghệ thuật ứng dụng. Vào đầu thế kỷ 20, thuật ngữ này mới bắt đầu được sử dụng để chỉ các phương tiện, quy trình, ý tưởng, công cụ và máy móc. Đến giữa thế kỷ 20, công nghệ được định nghĩa bằng những cụm từ như: “Phương tiện hoặc hoạt động nhân loại dùng để biến đổi môi trường tự nhiên hoặc thao túng tâm lý”. (Bách khoa toàn thư Britannica)

 

Hiểu biết về công nghệ là rất quan trọng đối với thời đại của chúng ta, vì hầu hết các hoạt động xã hội và nhân loại ngày nay đều được “sử dụng phần mềm trung gian của công nghệ, để hỗ trợ phát triển ứng dụng và đơn giản hóa các quy trình thiết kế”, với các hệ thống công nghệ lớn hơn, ngày càng phức tạp, trở nên quan trọng và thậm chí chiếm ưu thế. Điều này đã đạt đến mức có nguy cơ bởi phần mềm trung gian của công nghệ, có thể ảnh hưởng đến tương lai của nhân loại, theo những cách nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. 

 

Lip video

 

Tôi Là Robot (2004) |

https://thuyetminhviet.com/movies/i-robot-2004/

 

 Rủi ro đang hiện hữu từ một số nguồn, bao gồm sự phát triển tác nhân gây mầm bệnh, trí tuệ nhân tạo tiên tiến và kỹ thuật địa lý. * Trong quá trình phát triển công nghệ, đặc biệt quan trọng là chúng ta tuân thủ đạo đức để giảm thiểu – ít nhất là một phần – có thể xảy ra một số rủi ro do việc áp dụng nó. Khi các công nghệ trở nên phức tạp và nhiều lớp hơn, chúng đòi hỏi phải hiểu và giải thích các lý thuyết tiên tiến hơn, chẳng hạn như các lý thuyết từ lĩnh vực hệ  thống.

 

Khi các hệ thống phát triển vượt ra ngoài một Domain (tên miền, địa chỉ trực tuyến cho website mà người dùng internet), ứng dụng duy nhất và điểm biên của chúng, bao trùm các lĩnh vực và nguyên tắc khác nhau, chúng sẽ trở thành hệ thống phức tạp. Ngày nay chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều này, nhờ sự xuất hiện của một ngành học tương đối mới lạ: khoa học phức hợp. Tôi đang giới thiệu ngắn gọn một khám phá sơ lược về một số tương ứng giữa Phật giáo Mật tông Kim cương thừa và khoa học kỹ thuật, trong một bài diễn thuyết tại Hội thảo Phật giáo Kim cương thừa đầu tiên, tại Trung tâm Nghiên cứu về Bhutan và Hạnh phúc Quốc gia (GNH) vào năm 2016. (Các slide từ bài diễn thuyết có sẵn tại đây

https://fr.scribd.com/document/433088705/Vajrayana-Innovation-and-Complex-Systems#

 

Ngoài ra, ngày càng có thêm nhiều tài liệu học thuật dành cho chủ đề này. ** Thật thú vị, một thuật ngữ tiếng Phạn cổ có thể là một trong những nguồn gốc hoặc cùng nguồn gốc của hệ thống thuật ngữ: संस्थानम् (saṃsthānam), nghĩa là: 1. Bộ sưu tập, cấu trúc dữ liệu (heap), số lượng; 2. Sự tập hợp của các hạt hạ nguyên tử; 3. Cấu hình, vị trí.

 

Anthony Stafford Beer (1926–2002) là một nhà lý luận, nhà tư vấn, nhà tâm lý học và giáo sư người Anh tại Trường Kinh doanh Manchester, nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu hoạt động và điều khiển trong quản trị học, đã phục vụ ở Ấn Độ trong thời kỳ cai trị của Anh. (hầu hết được trích  dẫn trong tài liệu kỹ thuật vì đã đóng góp các khái niệm về tính khả thi của hệ thống). Một cách riêng tư, Giáo sư Stafford Beer đã thừa nhận với các đồng nghiệp rằng, ông là một Phật tử đang ứng dụng thực tiễn Phật pháp trong cuộc sống. Nhiều học giả và nhà lãnh đạo Phật giáo uyên bác – bao gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma – coi Phật giáo là một khoa học tôn giáo, theo nghĩa cả khoa học phương Tây và Phật giáo đều hướng đến mục tiêu mang lại lợi ích cho nhân loại. Ban đầu cả hai đều xác định các tiêu đề đầu tiên của họ, bằng cách khuyến khích các sinh viên đưa ra các giả thuyết về thực tế và đưa ra các phương pháp có thể lặp lại để kiểm tra xem các giả thuyết và kinh nghiệm thực tế có khớp với nhau không.

 

Hiện tại đã chính thức thiết lập mối tương quan giữa Phật giáo và Hệ thống lý thuyết nói chung (GST), cho thấy rằng theo quy định của GST, tất cả các hệ thống đều tuân theo các quy luật tổ chức giống nhau.

 

Quan hệ nhân quả, thường được định nghĩa là mối tương quan giữa nguyên nhân và kết quả, bao gồm cách mọi thứ xảy ra, cách thay đổi diễn ra, cách các sự kiện liên quan. Chúng có cùng sự tương đồng với thuật ngữ Phật giáo và Phật pháp. Nó cũng đề cập đến toàn bộ giáo lý của Đức Phật. . . bởi những cách hiểu biết về cuộc sống và thừa nhận cuộc sống bắt nguồn từ các quan hệ nhân quả.

 

Như vậy, trong quan điểm hệ thống mở về quan hệ nhân quả có những điểm tương đồng với giáo lý nhân quả của đạo Phật. . . Quan điểm nhân quả của Phật giáo được các tác giả khác nhau, diễn dịch khác nhau (ví dụ: Bukkyo Dendo Kyokai 1966; Harvey 1990; Macy 1991; Dumoulin 1994) là “quan hệ tương quan và nhân quả” , “nhân duyên cộng sinh”, “đồng thể cộng sinh”, “duyên khởi cộng sinh”, “quan hệ nhân quả và câu điều kiện.” (Shen và Midgely 2000)

 

Đáng chú ý là sự tương đồng giữa lĩnh vực hệ thống và đạo Phật. Một lăng kính khả dĩ để quan sát những mối liên hệ như thế là bản chất của tâm: cuối cùng thì chúng ta luôn chỉ nhìn thẳng vào tâm mình, và ghi nhớ dòng suy tư của chính mình lên các đối tượng quan sát và chú ý. Như thế, cả quan điểm toàn diện về các hệ thống như một tổng thể phức tạp, và sự nhận thứ về tâm như được tìm thấy trong truyền thống đại thủ ấn đều phát sinh từ một đặt điểm tiến hóa trong nhận thức của nhân loại: khả năng quan sát thực tế trong sự phức tạp của nó bằng cách sử dụng toàn bộ khối óc và trái tim.

 

Điều này bổ sung thêm một cấp độ cho sự kết hợp giữa hệ thống và đạo Phật: như nhận thức, kỹ năng nhận thức, và thậm chí có thể là khoa học thần kinh – có thể hưởng lợi từ di sản rộng lớn và tinh tế của các công cụ và kỹ thuật có thể bắt nguồn từ Phật giáo – có thể hưởng lợi từ cuộc đối thoại ngày càng tăng giữa Phật tử và các nhà lý thuyết hệ thống.

 

Phần kết luận, ở đây tôi muốn trình bày tập trung vào chức năng so với rối loạn chức năng trong các hệ thống. Trước đây, trong một bài viết đăng trên báo, tôi đã lưu ý rằng kỹ thuật hệ thống, giống như các thực hành đạo Phật, dựa vào việc tuân thủ các quy trình và nguyên tắc để đảm bảo tính toàn vẹn của hệ thống và cuối cùng là chức năng chính xác của hệ thống. *** Tôi cũng đã bắt đầu viết về sự sai lệch của hệ thống. ****

 

Một ví dụ trong Phật giáo về sự sai lệch có hệ thống, thực sự có thể được tìm thấy việc lạm dụng trong các tổ chức của các cơ sở tự viện, gần đây như trường hợp được báo cáo bởi tạp chí Buddhistdoor Global, cuối cùng trong đó tổ chức tâm linh không trở thành một nơi từ bi và lòng trắc ẩn mà là sự trừng phạt và lạm dụng. ****

 

Sai lệch hệ thống diễn ra khi các quy trình một tổ chức hoặc giao dịch nhất định mất kết nối với ý định (trách nhiệm) của chúng và trở nên méo mó, thường là để phục vụ một mục đích trái ngược (rối loạn chức năng). Điều này xảy ra rất nhiều. Một phần nó gây ra bởi khả năng sai lầm cố hữu của con người và các hệ thống xã hội. Khi phát triển các công nghệ mới, chúng ta phải ghi nhớ xu hướng sai lầm này của con người và thiết kế phù hợp: hệ thống của nó thiếu tuân thủ các nguyên tắc, có khả năng dẫn đến rối loạn chức năng hệ thống.

 

Trên góc độ lý thuyết và đạo đức, các hệ thống Phật pháp có thể hỗ trợ tính chính trực và tuân thủ các nguyên tắc. Từ góc độ thực dụng, các thông lệ tốt về công nghệ và kỹ thuật có thể hỗ trợ sự gắn kết của hệ thống. Thống nhất hai chủ đề này có khả năng tăng cường sức mạnh cho cả  hai.

 

* Đổi mới: Quản lý rủi ro chứ không phải tránh né nó (Văn phòng Khoa học Chính phủ Vương quốc Anh)

 

** Win, David Tin, “Lý thuyết hỗn loạn và Nghiệp (Khoa học phức hợp)”. Tạp chí ABAC Tập 28, Số 3 (Tháng 9–Tháng 12 năm 2008, trang 71–80)

 

*** Chánh Tinh Tấn trong Thiết Kế Hệ Thống (Buddhistdoor Global)

 

**** Di Maio, Paola, 2016. “Sự sai lệch hệ thống, hay còn gọi là: Cái ác trong cỗ máy” (Học viện)

 

***** Tiếng Chuông Báo Động Về Tình Trạng Lạm Dụng Trẻ Em Tại Các Chùa Phật Giáo Thái Lan (Buddhistdoor Global)

 

Tác giả Paola Di Maio

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn 佛門網

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2012(Xem: 4428)
Con người quyện kết với lòng trắc ẩn, yêu thương và hợp tác. Bởi vì chúng ta là những động vật tâm lý, tuy thế, một nhân tố luôn tái hiện khống chế nhiều hành vi của chúng ta. "Chiếc bóng" của chúng ta như C.G. Jung đã gọi, là nhân tố [tiềm ẩn và thường hoạt hóa] kiềm chế cá tính, có khuynh hướng cho rằng đời sống của chính nó bởi vì nó được hình thành như một bộ phận của chính chúng ta mà ta không biết và do thế không thể hợp thành một thể thống nhất vào trong đời sống ý thức của chúng ta. Điều làm cho chiếc bóng này ngay cả rắc rối hơn không chỉ là một vấn đề cá nhân. Những chiếc bóng của chúng ta có thể hợp nhất lại với nhau, như thường xảy trong thời chiến tranh, thí dụ, khi kẻ thù đi đến biểu tượng hóa mọi thứ xấu xa và đáng khinh bỉ về bản chất con người.
04/03/2012(Xem: 53792)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
28/02/2012(Xem: 7575)
Phật pháp vô lượng Giáo lý vô biên Ta bước lên thuyền Mong qua khỏi bến Niết bàn sẽ đến Chú trọng tinh thần Suy lý tìm chân Ấy là thức ngộ Hành là tự độ Rồi mới độ tha Vượt biển ta bà Về nơi an lạc
27/02/2012(Xem: 4974)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
17/02/2012(Xem: 4114)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
04/02/2012(Xem: 12688)
Được xuất bản nhân dịp một trăm năm ngày sinh của J.Krishnamurti, Lửa trong Cái Trílàmột quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti.Được tổ chức từ cuối những năm 1960 đến ngày 28 tháng 12 năm 1985, bảy tuầntrước khi ông chết vào ngày 17 tháng 2 năm 1986, những đối thoại này bao gồm vôvàn những quan tâm của con người – sợ hãi, đau khổ, chết, thời gian, lão hóa vàsự mới mẻ lại của bộ não.
17/01/2012(Xem: 8758)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 5130)
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn... Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
15/01/2012(Xem: 5847)
Từ một tình trạng không có gì, phi thời gian không gian, không cần một nguyên nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất. Đó là hiệu ứng được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử”, xuất phát từ sự tăng giảm không đều của năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người sáng tạo.
07/01/2012(Xem: 7664)
Chúng ta hãy đừng lừa dối chính mình, điều này tưởng chừng như không khó khăn nhưng thật sự đó là điều khó nhất trong tất cả các trạng thái mà chúng ta có thể đạt được. Bằng cách "Không lừa dối chính mình", nghĩa là tôi muốn nói chúng ta hãy ngưng vẽ một bức tranh của thế giới ngày nay bằng những sai lầm với các màu sắc khoái lạc, vì tiện nghi và an toàn cho riêng mình. Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]