Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Trú Định Chứng Diệt (Đại nguyện thứ 11 của Đức Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)

02/02/202106:05(Xem: 15571)
11. Trú Định Chứng Diệt (Đại nguyện thứ 11 của Đức Phật A Di Đà, bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong đại địch Covid-19)



Nam Mô A Di Đà Phật


Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học Đại nguyện thứ 11 của Đức Phật A Di Đà, Trú Định Chứng Diệt. Tất cả chúng sanh trong cõi cực lạc thường xuyên sống trong chánh định cho đến khi chứng quả tịch diệt.

Sư Phụ giải thích:
Trú Định: hành giả luôn ở trong trạng thái định 24/7 (tức có nghĩa là 24 giờ trong 1 ngày và 7 ngày 1 tuần), trú định 24/7 là trong tâm không loạn và bên ngoài không động, không tranh khi tiếp xúc với ngoại cảnh.
Chứng diệt cũng gọi là Tịch Diệt mà Tịch Diệt là Niết Bàn, Niết bàn là vắng lặng hoàn toàn không còn một chút phiền não khổ đau.
Niết Bàn không có tạo ra bất cứ nguyên nhân nào dẫn tới nghiệp sanh tử luân hồi.
Niết là không, Bàn là khổ đau, không còn đau khổ là Niết bàn.
Niết là không, Bàn là phiền não, không còn phiền não là Niết bàn.
Niết bàn có mặt tại đây và ngay bây giờ, không phải chờ đến lúc tắt thở mới thấy niết bàn.


Con bất ngờ học được ý nghĩa Niết Bàn hôm nay, quá dễ hiểu mà lâu nay con không biết. Quả thực ngôn ngữ đại thừa PG quá tuyệt vời, những ý nghĩa thâm sâu luôn nằm dưới những con chữ đơn giản.

Đức Phật A Di Đà ước nguyện tất cả chúng sanh trong cõi cực lạc luôn sống trong chánh định để được chứng quả Niết Bàn rốt ráo.

Theo Tổ Hoằng Nhẫn, sống trong chánh định được tận trừ 8 tập nhân, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến.
Nếu tham nổi lên thì tận trừ tham trong chánh định. Ngồi yên là phương tiện trợ giúp cho định tâm.
Thường kiến là chấp đời này làm vua đời sau cũng làm vua.
Đoạn kiến là chấp sau đời này chết là hết.

Sư Phụ có kể một câu chuyện, Ngài Khuy Cơ ngồi thiền nhập định một vạn năm trên một núi cao.
Ngài Huyền Trang trên đường đi thỉnh kinh, ghé nghỉ ở một hang động trên núi. Ngài thấy có một dáng người ngồi thiền bất động như pho tượng, người phủ lớp bụi dày, không còn y áo.

Ngài Huyền Trang lấy khánh gõ ba tiếng, hành giả mở mắt hỏi Hoà Thượng là ai, ngài thưa là Hoà Thượng ở đại Đường đi thỉnh kinh.
Ngài Huyền Trang hỏi lại, hành giả cho biết là ngồi thiền chờ Đức Phật Thích Ca ra đời sẽ giúp Phật hộ trì tam bảo.
Ngài Huyền Trang cho biết Đức Phật đã viên tịch hơn một ngà năm.
Hành giả nói vậy là sẽ tiếp tục ngồi thiền chờ Đức Đi Lặc ra đời.
Ngài Huyền Trang khuyên hành giả Khuy Cơ nên xuống núi giúp ngài hoằng pháp bằng cách tái sanh thành một cơ thể trẻ mới.
Ngài Huyền Trang hướng dẫn tái sanh vào nhà có mái màu vàng.

Khi ngài Huyền Trang trở về Trung Hoa sau 17 năm thỉnh kinh ở Ấn Độ, ngài hỏi thăm vua Đường Thái Tông thì mới biết là ngài khuy Cơ đã tái sanh sai địa chỉ, thay vì đầu thai vào nhà có mái ngói vàng, ngài đã chọn nhầm mái nhà có mái ngói màu xanh ngọc, đó là nhà của tể tướng. Ngài Huyền Trang khuyên vua ra Chiếu chỉ bắt con của  tể tướng phải vào cung xuất gia với bất cứ điều kiện nào cũng chấp nhận. Ngày công tử đi xuất gia có ba xe theo hộ tống, xe rượu, xe thịt, xe gái đẹp, có tên là tam xa pháp sư.

Khi vào cổng tam quan của Đại Hưng Thiện Tự trong hoàng thành, cậu công tử khi nghe ba hồi chuông trống bát nhã nổi lên, cậu bé nhớ lại kiếp quá khứ. Ước nguyện Trú Định Chứng Diệt quên đi khi vào thai mẹ. (xem thêm câu chuyện ly kỳ này do HT Tuyên Hóa kể)

Sư Phụ cho biết:
Bồ Tát còn mê khi cách ấm
Thanh Văn vẫn muội khi ra thai.
Ngài Khuy Cơ sau khi xuất gia tu học với pháp sư Huyền Trang tinh tấn tu học và trở thành đại sư lừng danh của Tông Duy Thức sau này.

Sư Phụ có nhắc đến Đức Đạt Lại Lạt Ma thứ 14, Ngài cũng thú thật với báo chí là Ngài không còn nhớ gì về kiếp quá khứ từ khi vào thai mẹ. Tuy nhiên trong tác phẩm "Tự Truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma", Mẹ của ngài, bà cụ Diki Tsering kể rằng lúc ngài bốn tuổi, trí nhớ kiếp quá khứ vẫn còn hiện hữu, khi được thừa nhận là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, Ngài và gia đình được đưa về thủ đô Lasha, Tây Tạng, vào phòng riêng của ngài ở Lasha, cụ bà kể:  "Tôi ngạc nhiên thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma mở những dấu niêm phong của nhiều cái rương ở trong phòng của ngài, và tìm một vật gì đó. Cuối cùng ngài đã tìm thấy vật mà mình muốn tìm, một cái hộp nhỏ bọc gấm. Tôi hỏi ngài đang tìm gì vậy, ngài nói rằng trong cái hộp này có một cái răng. Khi ngài mở cái hộp, quả nhiên trong hộp có một cái răng, đó là cái răng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba." (Xem thêm về câu chuyện này


Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ dày công biên soạn một chứng nhân của đại nguyện thứ 11 Đức Phật A Di Đà, Trú Định Chứng Diệt, hiện thực không mất đi khi tái sanh, qua lịch sử vào thời Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh. Có tu thì có chứng không lo mất chỉ lo thiếu tu thôi.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).   

TT Thích Nguyên Tạng, Đại Nguyện Thứ 11, Trú Định Chứng Diệt

Luôn sống trong Chánh Định ...

thì làm sao tạo nhân đưa tới sinh tử luân hồi ! 

Đại nguyện thứ 11- TRÚ ĐỊNH CHỨNG DIỆT 

(Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.)



Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về đại nguyện thư 11 trong 48 Đại nguyện của Đức Phật A Di Đà . Kính bạch Thầy không hiểu sao con rất thích nghe lại chuyện về Ngài Khuy Cơ dù đã đọc vài lần đâu đó , có lẽ vì con đã từng được nghe âm thanh tiếng trống Bát Nhã thôi thúc mãnh liệt mỗi khi dự đại lễ tại chùa . Kính tri ân Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, HH



Điều ước ao người học Đạo chính : đại nguyện mười một ! 

Hành trình tu tập ..niệm ác khởi lên sẽ diệt trừ,

Tham, sân, si, mạn,  nghi, tà kiến chẳng còn dư .

Noi gương Ngũ  Tổ Hoàng Nhẫn luôn sống trong Bát Định ! 



Đa tạ Giảng Sư ... Bồ  tát vào thai mẹ cách ấm  còn mắc dính

Chuyện Ngài Khuy Cơ  . có tên là " Nhà Sư Tam  Xa " 

Nhờ uy lực âm thanh Trống Bát Nhã ...chợt tỉnh ra 

Phụ tá Ngài Huyền Trang ...lừng danh về  Duy Thức! 



Kính  tri ân Thầy ... Tịch Diệt, Niết Bàn ...nghĩa thực 

Chỉ cần không gây ra tất cả nguyên nhân 

Đưa  đến phiền não , sợ hãi, đau khổ bản thân 

Sẽ có Niết Bàn tại đây, bây giờ như An Dưỡng Quốc ! 



Nguyện hồng danh sáu chữ luôn trong tâm thức 

Bất cứ khi  nào đi, đứng, nằm , ngồi 

Nếu mai kia phải nhận vé gửi mời 

Sẽ nhìn thấy ánh quang minh tiếp dẫn !



Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Đi Đà Phật 

Huệ Hương 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2021(Xem: 10597)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11725)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12189)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15062)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11928)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16765)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
09/03/2021(Xem: 6183)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
29/11/2020(Xem: 12590)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7840)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20183)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567