Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Ca Tỳ Ma La (Kapimala) (Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do Phật tử Quảng Tịnh Tâm trình pháp)

15/09/202012:31(Xem: 16154)
Tổ Ca Tỳ Ma La (Kapimala) (Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do Phật tử Quảng Tịnh Tâm trình pháp)

85_TT Thich Nguyen Tang_To Ca Ty Ma La


Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ
Bạch Sư Phụ, hôm nay SP giảng về Tổ  thứ 13, Ngài tên Ca Tỳ Ma La (Kapimala), Ngài  ra đời vào thế kỷ thứ hai Tây lịch trong 1 gia đình theo ngoại đạo. Ngài nổi tiếng về huyển thuật và phù phép. Ngài hoá thành con sâu đến trộm nghe pháp lúc Tổ thứ 12, Mã Minh đang giảng, và được Tổ Mã Minh bắt gặp và ngài phải lộ nguyên hình, đảnh lễ xin sám hối và cầu xuất gia tu học theo Tổ. Ngài có phước duyên dự  một đại giới đàn long trọng,  Tổ cung thỉnh  500 vị A La Hán chứng minh, có 3000 giới tử thọ giới và Ngài đã đắc giới thể thanh tịnh, hương thơm của giới thể tỏa ngát ngay trong ngày thọ giới. 
Bạch Sư Phụ, cảm ơn Sư Phụ kể câu chuyện thọ giới này, con rất thích chi tiết trên, nhờ SP diễn tả, con mới biết sự trọng thể trang nghiêm thanh tịnh của đại giới đàn truyền giới , và
nhất là quy tắc đại giới đàn vẫn được truyền Đăng tục diệm từ Đức Thế Tôn xuyên suốt hơn 26 thế kỷ qua, từ Ấn Độ cho tới ngày nay trên quê hương VN  và các nước trên thế giới.

Con mơ ước được đứng một góc nào đó trong giới đàn, tĩnh lặng, xúc động ...thành tâm chiêm ngưỡng :

1- giới đàn trang nghiêm
2-giới Sư thanh tịnh
3- giới tử chí thành
Và một kiếp nào đó, nếu con không được về cõi Tịnh của Đức A Di Đà, thì con được dự một giới đàn lung linh kỳ vĩ như thế.
Tổ Ca Tỳ Ma La sau khi đắc pháp , đến Trung Ấn giáo hoá . Ngài đi về phía nam của chân núi gặp một con rắn thần dài 1 dặm (hơn 1000 mét) theo Ngài rồi bỏ đi.
Khi Ngài đến hang đá gặp một ông già râu tóc bạc và được biết là từ con rắn hoá ra .
Ông già cho biết trước kia ông là một tỳ kheo nhưng vì tánh sân nổi lên khi bị quấy phá nên bị đọa làm kiếp rắn 1000 năm.
Bạch Sư Phụ, khi nhớ hình ảnh vị tỳ kheo bị hoá kiếp làm rắn, con sợ quá, con nguyện cố gắng tu tập không khởi niệm Sân nữa, con kính niệm Phật A Di Đà từ bi tế độ cho con .
Vị tỳ kheo được tổ khai thị, và trình tổ là cách đây 10 dặm (khoảng 16 cây số) , có một vị ở dưới tàng cây thường nói pháp, Tổ liền lên đường tìm vị này.
Ngài Long Thọ  chào hỏi và trong tâm nghi ngờ trong tâm Tổ chưa là 1 vị đắc đạo.
Tổ đọc được ý nghĩa đó của Ngài Long Thọ và khuyên bảo Long Thọ xuất gia tu học. 
Ngài Long Thọ quy Phục, sụp lạy sám hối và xin xuất gia và được Tổ Ca Tỳ Ma La ấn chứng truyền kệ :
"Pháp không ẩn không hiển,
Nói là mé chơn thật,
Ngộ pháp ẩn hiển nầy,
Chẳng ngu cũng chẳng trí ".
Pháp không ẩn cũng không hiện chính là Phật tánh, pháp này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được. "Không ngu cũng không trí" là ý Tổ muốn hành giả phải vượt lên trên nhị biên, là 2 phạm trù: có-không, thường-đoạn, vọng-chơn, phàm-thánh, vì còn nhị biên là còn đối đãi, còn đối đãi là còn phiền não, còn phiền não là còn luân hồi khổ đau.
Sư phụ có dẫn trong Kinh 42 chương, Phật dạy rằng " Phápcủa Như Lai dạy rằng niệm vô niệm niệm, ngôn vô ngôn ngôn, hành vô hành hành, tu vô tutu, chứng vô chứng chứng".
Trong Kinh Niết Bàn Phật cũng dạy ý này: “Người vô sở đắc là trí tuệ. Người hữu sở đắc gọilà vô minh” (Vô sở đắc giả tắc danh vi huệ, hữu sở đắc giả danh vi vô minh).

Có nghĩa là hành giả tu tập muốn giải thoát phải ly khai mọiý niệm dính mắc về pháp môn, không trú trước trên sở đắc, sở chứng của mình, phải tự tại thong dong.

Con cảm ơn Sư Phụ đã  từ bi hoan hỷ ban pháp vị cam lộ nhiệm mầu mỗi ngày, không ngừng nghỉ trong hơn 100 ngày nơi đạo tràng viễn thông livestream qua facebook Trang Nhà Quảng Đức .
Con kính tri ơn Sư Phụ, vì hạnh nguyện hóa độ mà đem ánh sáng Phật Pháp sẻ chia cho hàng đệ tử chúng con trong mùa giản cách xã hội vì dịch cúm covid-19.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 5110)
Bài pháp này đã được Đức Phật thuyết cho ẩn sĩ Subhadda ngay vào lúc sắp viên tịch Níp Bàn giữa hai cây Sàlà (vườn Ingyin) gần thành Kusinãra, xin trích đoạn sau ...
01/04/2013(Xem: 6443)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
01/04/2013(Xem: 4669)
Nhiều người cho rằng đức tin và trí tuệ trong thiền quán (vipassanà) đối nghịch nhau, mâu thuẫn và không thể phối hợp. Không phải vậy! chúng thân hữu và là hai nội lực quan trọng. Trong thông tin vừa rồi, tôi đã viết về những điểm đặc thù và khác biệt giữa các hành giả châu Aù và phương Tây.
29/03/2013(Xem: 5051)
Từ khai thiên lập địa cho đến ngày nay, khi trí thức con người đã triễn khai, nhân đứng trước vũ trụ rộng lớn, nào trăng sáng, núi cao, biẻn rộng ,sông dài ,mây bay ,gió cuốn ,hoa nở ,chim ca ...
21/03/2013(Xem: 6226)
Trước khi đề cập tới ba đại tai họa,chúng ta nên biết rằng có những sự kiện xảy ra rất lâu dài, có thể nói là rất lâu dài hằng nhiều tỷ năm, đó là: - Từ khi Thái-Dương hệ (hệ thống mặt trời) được thành lập rồi, trong thời gian Thái-Dương hệ tồn tại cho tới khi bị tiêu diệt, thời gian ấy rất lâu dài. (Một nhà khoa học nói: “Thái-Dương hệ của chúng ta có đời sống mười tỷ năm, và hiện tại nó đã sống được một nửa rồi”.
28/02/2013(Xem: 5140)
Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài trả lời phỏng vấn của Paul F. Knitter, Giáo sư thần học về các Tôn giáo Thế giới và Văn hóa tại Chủng viện Union ở Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách “Không Học Phật, Tôi Đã Không Thể Là Một Con Chiên- Without Buddha I Could Not Be A Christian”.
28/02/2013(Xem: 4626)
Nói về nguồn gốc loài Người, một vấn đề liên quan tới nguồn gốc của chính Tổ-tiên xa xưa lâu đời của chúng ta; nó hết sức khó hiểu cho con người, đã có biết bao người suy nghĩ, nghiên cứu và lý luận để tìm câu trả lời. Ngày nay chúng ta đã có những thuyết trả lời khác nhau như sau:
23/02/2013(Xem: 5323)
Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Đức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Đức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử. Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.
21/01/2013(Xem: 5132)
Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.
21/01/2013(Xem: 5142)
Tiến sĩ Thupten Jinpa chuyển vai trò thông dịch sang thuyết trình. Ông bắt đầu với lý thuyết Phật giáo thời kỳ sơ khởi về nguyên tử và đề cập đến các xu hướng giản hóa luận trong thời kỳ này. Ông cũng chỉ ra rằng không có bất kỳ quan điểm giản hóa luận nào của các nhà tư tưởng Phật giáo đã quy giản tâm thức về vật chất thuần túy. Nhà hiền triết Aryadeva, đệ tử của đạo sư Long Thọ, đã viết các tranh biện với các luận thuyết thời kỳ sơ khởi là ở trong khía cạnh các quan điểm về tính rời rạc và về lý nhân quả. Trong khuôn khổ của Hai Chân lý thì tất cả các trường phái tư tưởng Phật giáo đều đồng quan điểm về chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng nếu Cơ học Lượng tử được luận giải trong bối cảnh này, thì sẽ dễ dàng nắm bắt hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567