Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Tuyệt Vọng

04/01/201909:14(Xem: 11277)
27. Tuyệt Vọng

Tuyệt Vọng

(giọng đọc Hữu Châu)

 

Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn.

 

 

 

Lạc mất cái tôi

 

Sống trong đời sống thì phải có hy vọng. Tin vào ngày mai tốt đẹp hơn là phương cách rất cần thiết để cứu rỗi linh hồn ta vượt qua những cơn đau hụt hẫng, hay trước thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Nhưng nếu ta đổ dồn hết năng lượng về một phía, cũng như ta đem hết tài sản của mình ra để đánh một canh bạc sau cùng, mà lỡ canh bạc ấy thất bại thì cuộc đời ta kể như không còn gì nữa để sống. Thật không có gì lạc lõng cho bằng khi ta không còn biết tin tưởng vào đâu. Đúng hơn là trái tim ta không đủ sức chứa đựng cảm xúc hụt hẫng quá lớn mà trước nay nó chưa từng xảy ra với ta, hay ta chưa hề chuẩn bị trước. Cái tôi vì không còn chỗ bám nên nó rơi vào khoảng trống chơi vơi, lạc lõng mà không định dạng được chính mình và mọi thứ xung quanh.

 

Khi tuyệt vọng, tâm trở nên lu mờ hơn bao giờ hết. Ta nhìn mọi thứ bằng con mắt bi quan, chán chường, có cảm tưởng như trên đời này không còn điều gì ý nghĩa và đáng tin tưởng nữa. Nhưng sự thật là đất trời vẫn đang ôm ấp ta, những người thân yêu vẫn luôn bảo bọc ta, những điều kiện thuận lợi vẫn đang tồn tại quanh ta. Chỉ vì tâm ta đang bị vướng kẹt vào một đối tượng hấp dẫn nào đó và vô tình tự đồng hóa cả đời sống của mình với đối tượng ấy. Nghĩa là trong khi đặt niềm tin vào ai đó, ta đã dễ dãi dồn hết năng lượng của mình về phía đối tượng ấy. Lối tin tưởng này đã khiến ta tự giới hạn hoặc chấm dứt sự liên kết cần thiết với những đối tượng xung quanh. Ta đã rơi vào thế mất cân đối ngay từ khi gửi niềm tin cho kẻ khác, nên lỡ đối tượng ấy tan biến thì đương nhiên ta cũng sụp đổ theo. Ta không còn chỗ để bám. Cái tôi dường như bị đánh cắp.

 

Ta quên rằng sự thất bại về danh vọng, tình yêu hay lý tưởng cũng chỉ là một phần của đời sống. Ta còn rất nhiều lý do để sống, để hy vọng. Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn. Không phải ai thất vọng cũng đều trở thành tuyệt vọng và không phải ai tuyệt vọng cũng đều chết chìm mãi trong khổ đau. Người có hiểu biết luôn xem thất bại là bài học kinh nghiệm để góp phần vươn tới thành công. Họ tin rằng những gì đã khổ công gầy dựng thì không bao giờ mất. Nó sẽ chuyển từ dạng này sang dạng khác, hoặc đang bảo lưu ở một dạng vô tướng nào đó để chờ đợi những yếu tố khác đến kết hợp. Nhờ có nội lực vững mạnh, nên họ luôn sẵn sàng chấp nhận tổn thất nặng nề mà không hề than van hay bỏ cuộc. Vì họ biết con người của mình vĩ đại hơn những gì chưa thể hiện được hoặc đã bị lấy đi. Điều quan trọng là họ chưa từng đem cuộc đời mình ra đặt cược hay rao bán.

 

 

 

Không biết đi về đâu

 

Thế nhưng, phần lớn mọi người khi rơi vào vực thẳm khổ đau tuyệt vọng đều muốn buông xuôi tất cả. Nếu ta có trong số đó thì hãy tự vấn mình: Thật ra ai đã khiến ta ra nông nổi này? Nếu ta đã xác định thủ phạm chính là người kia thì cũng nên tự hỏi thêm rằng: Người kia là ai mà có quyền thao túng cuộc đời ta dễ dàng như vậy? Họ chỉ có thể làm cho ta đau nhưng họ không có quyền làm cho ta khổ. Ta nên nhớ rằng thân mạng này không phải là của riêng ta nên ta không có quyền coi thường hay hủy hoại nó. Sự thật là cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những bậc ân nhân và cả tổ tiên hay giống nòi cũng đều đang có mặt trong từng tế bào và hơi thở của ta. Họ đang cùng ta đi về tương lai. Ta ngã xuống thì họ cũng sẽ ngã theo. Tương lai ta ra sao thì một phần họ cũng sẽ trở thành như thế ấy.

 

Dẫu biết rằng, khi chọn đến cái chết là ta đã chịu khổ đau đến mức cùng cực rồi; trái tim của ta như sắp tan vỡ vì không thể chịu nổi niềm đau quá lớn đang đè xuống. Nhưng suy cho cùng thì ta vẫn đang làm một quyết định rất ích kỷ. Ta chỉ muốn tìm cách trốn thoát cơn bão cảm xúc đang đè nặng bản thân mà chính ta cũng có phần trách nhiệm lớn trong ấy. Ta cứ tưởng rằng mình là kẻ khổ đau nhất trên đời, nên mọi người cần phải tôn trọng và không có quyền trách giận mình. Đúng là không ai nỡ trách giận một kẻ đang khổ. Nhưng ta không có quyền làm cho những người thân yêu của ta khổ chỉ vì ta đã bị kẻ khác làm cho mình khổ. Và liệu ta có yên vui nơi thế giới xa lạ nào đó khi tâm hồn ta vẫn còn đầy rẫy những oán hận chưa nguôi và trách nhiệm làm người vẫn còn dang dở?


Không có cái tương lai nào tách lìa với hiện tại cả, hiện tại như thế nào thì tương lai cũng đồng tính chất như thế ấy. Khổ đau từ trái tim thì liệu pháp chữa trị cũng từ trái tim. Ta đừng tiếp tục truy cứu kẻ đã làm khổ mình để đòi hỏi, trừng phạt, hay tìm một nơi mà mình cho là bình yên tuyệt đối để lẩn tránh. Dù có làm được chuyện ấy thì vết thương trong ta cũng không thể nào lành lặn được. Cách đó chỉ làm thỏa mãn cơn cảm xúc nhất thời, bởi ta không bao giờ lấy lại đầy đủ tất cả những gì đã mất. Hãy bình tâm nhìn kỹ lại. Nhiều khi ta không thoát khỏi vực thẳm khổ đau không phải vì ta không đủ sức, mà có thể vì ta đang muốn tự giam mình trong tình trạng thê thảm ấy để kích động lương tâm của người kia như một kiểu trừng phạt. Hoặc có thể vì ta muốn chìm đắm trong cảm xúc quặn đau ấy để tự thương hại bản thân mình. Người ta thường gọi đó là "thú đau thương".

 

Khi rơi vào cảm xúc khổ đau quá lớn, một kẻ vừa yếu đuối vừa chỉ biết lo nghĩ cho bản thân thì thường lấy đau thương để gặm nhấm rồi than thân trách phận, chứ không tích cực tìm lối thoát. Họ thích nằm co ro như con tôm để nghe những bản nhạc tình sầu đứt ruột. Hoặc họ thích người khác tưới tẩm vào nỗi khổ niềm đau của mình, bằng cách công nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời và rất đáng tội nghiệp, chứ không chịu cho ai kéo mình ra khỏi vực thẳm đen tối ấy. Đó cũng là một dạng trầm cảm - thích giam cảm xúc ở cung bậc thấp để thỏa mãn mặc cảm thua sút. Thật ra, trong sâu thẳm thì đó cũng là cách để loan báo cho mọi người biết về cái khổ đau mà ta đang gánh chịu, nhưng lại muốn được xót thương hơn là cứu giúp. Muốn giúp ta, phải có khả năng đưa ta trở về đúng vị trí căng đầy niềm hy vọng như ban đầu thì ta mới thấy tự tin. Còn không, thà cứ để ta như vậy.

 

 

 

Rác cũng là hoa

 

Trong bài hát Tôi ơi đừng tuyệt vọng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đưa ra giải pháp chữa trị rất đúng: "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh". Phải trải nghiệm nhiều lắm, phải đứng lên từ những khổ đau tuyệt vọng thì nhạc sĩ mới đúc kết được như thế. Trước đó, nhạc sĩ cũng đã khẳng định: "Em là tôi và tôi cũng là em". Em là tâm lý tuyệt vọng, là một biểu hiện nhất thời của cái tôi rộng lớn. Không thể cho rằng tuyệt vọng là toàn bộ con người của ta. Dù nó đang khống chế ta trong mọi suy tư và hành động, nhưng bản chất của nó vẫn là vô thường như mọi hiện tượng tâm lý khác. Sớm muộn gì nó cũng sẽ tan


biến thôi. Điều kỳ diệu là nhờ chuyến trôi dạt đến tận cùng miền đau khổ ấy mà ta khám phá ra được bản chất của mọi phiền não đều không có thật, và chúng cũng không hề có tên gọi gì cả. Chúng chỉ là những phản ứng chống trả nhất thời của cái tôi yếu đuối và còn thiếu hiểu biết về chính mình. Nhưng nhờ những phản ứng mạnh mẽ ấy, ta mới thấy rõ hết những yếu kém sâu sắc của mình mà kịp thời giúp đỡ và thay đổi cách sống. Có thể nói, nếu không có phiền não thì sẽ không bao giờ có sự giác ngộ; nếu không có em tuyệt vọng hôm qua thì sẽ không có tôi vững chãi hôm nay. Bởi em là tôi và tôi cũng chính là em.

 

Cũng giống như đem rác chuyển hóa thành phân hữu cơ để nuôi hoa, góp phần làm ra hoa. Hoa trở thành rác mà rác cũng có thể biến thành hoa. Thành ra, ranh giới giữa em tuyệt vọng và tôi cách nhau chỉ trong đường tơ sợi tóc. Khi lạc lõng thì em bé dễ hờn dễ khóc năm xưa trỗi dậy, nhưng chỉ cần sự tỉnh thức trở lại thì cái tôi vững chãi sẽ được gọi về. Ta muốn đời sống có bình minh, muốn vượt thoát cơn đau tuyệt vọng thì ta phải trở về làm mới tâm hồn mình, chứ đừng rượt đuổi theo kẻ khác để trừng phạt hay bám víu. Giải pháp hay nhất và duy nhất là phải "hồn nhiên" - sống được với con người chân thật vốn có của mình. Đó là con người chưa từng đón nhận những vai vế của cuộc đời, chưa từng biết che đậy hay trình diễn. Con người ấy nhìn đâu cũng bằng ánh mắt trong suốt như bé thơ, chứ không mang theo màu sắc pha tạp của những thành kiến và định kiến. Chỉ cần can đảm buông hết mọi tranh đấu, tạm thời lui về một không gian yên tĩnh và gần gũi với thiên nhiên, dành hết năng lực để chăm sóc lại từng dòng cảm xúc hay suy tư của mình, tiếp xúc thật sâu sắc với những gì đang hiện hữu bên mình bằng thái độ cởi mở và thương yêu thì em bé hồn nhiên sẽ từ từ hiện ra. Em bé ấy sẽ không còn thấy gì là tổn thương hay đau khổ nữa cả. Đó chính là tác phẩm hài hòa nhất của vũ trụ.

 

Ta hãy tin vào vô thường - mọi thứ rồi cũng sẽ đổi thay. Ta sẽ không còn tâm lý tuyệt vọng và người kia cũng sẽ không còn dại khờ mà làm cho ta khổ nữa. Bởi vì trong ta và người kia tuy có chất liệu rất "trần gian", nhưng cũng đôi khi lại thấy "yêu quá đời này".


 

 

Tạ ơn đời mầu nhiệm

Tạo duyên có rồi không

Hết không rồi lại có

Cho ngày mới đơm bông.
Đừng buồn nhìn xơ xác
Đời cần chút đổi thay
Hoa xưa rồi thắm lại
Vườn cũ ngát hương bay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 52185)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51609)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9426)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12377)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15113)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12690)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13058)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9933)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
03/03/2010(Xem: 9817)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
08/01/2009(Xem: 12579)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567