Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thông Minh và Đạo Đức

20/11/201820:21(Xem: 5005)
Thông Minh và Đạo Đức
robot_1

THÔNG MINH VÀ ĐẠO ĐỨC

Ngày nay, nhân loại tiến vào lãnh vực khoa học đời sống, khoa học vật chất và nhiều lãnh vực khác nhau bằng kiến thức và trí thông minh vượt bậc. Nâng cuộc sống lên tầm mức tiện nghi mà những thế hệ cha ông trước đây chưa được chứng kiến và hưởng thụ.

Để đạt đến được một thành quả nhất định, bản thân người sáng tạo và kẻ thụ hưởng chưa hẳn trọn vẹn sống trong hạnh phúc và mãn nguyện, từ đó phát sanh những nhu cầu mà do lòng tham ước vọng luôn đòi hỏi.

Một số công ty, kỷ nghệ luôn mưu tìm hướng đi cho một thành quả ưu việt nhất, dĩ nhiên cần sức lao động và trí tuệ của nhân viên chuyên ngành, thậm chí, phải gia tăng giờ lao động ngoài luật quy định, gọi là hưởng lương phụ trội; trên bề mặt, đó là luật công bình, không thể gọi là bóc lột sức lao động. Vào thời quá khứ, người lao động vắt sức kiệt lực, bất kể giới hạn thời gian mà lương không được gia tăng phụ trội,thậm chí không trả lương đủ, làm giàu cho chủ nhân, gọi đó là bóc lột. Ngày nay, “thuận mua vừa bán” không bị ghép vào bóc lột, nhưng, cho dù luật nào muốn bảo vệ công nhân lao động, cũng không tránh khỏi kẽ hở khi mà chủ nhân cố tình lách luật.

Trong cuộc sống có muôn vạn ngành nghề cũng có muôn vạn kẽ hở để người thiếu lương tâm tha hồ bóc lột công sức của người lao động. Những đất nước chậm tiến đã đành, những quốc gia giàu mạnh, nếu tinh thần đạo đức không được thấm nhuần  với chủ nhân hay người trực tiếp điều hành công việc, công nhân, nhân viên lao động không tránh khỏi những quy định khắc khe của một tổ chức lớn do chủ nhân đòi hỏi.

Tổ chức công đoàn là đại biểu bảo vệ quyền lợi công nhân, đôi khi do áp lực hoặc do mua chuộc, đại biểu công đoàn ngã sang bảo vệ quyền lợi cho chủ nhân mình đang phục vụ, công nhân sẽ chịu thiệt nhiều thứ. Một số quốc gia, sản phẩm được hình thành do công sức của tù nhân không lương, những trẻ em nghèo khó…Một vài công ty, buộc công nhân, nhân viên phải làm ngoài giờ, lương phụ trội là bề mặt của sự công bình; việc làm giờ phụ trội có thể chấp nhận trong thời gian nhất định cần thiết để hoàn tất một sản phẩm, nhưng không thể luôn là gia tăng hàng ngày từ 12 đến 16 giờ, biến công nhân trở thành chiếc máy bị vét kiệt sức để nhận những đồng lương phụ trội với thời gian lâu dài, đồng lương phụ trội đó không còn tương xứng với sức khỏe lâu dài mà một công nhân buộc phải chấp nhận lao động, nếu không chấp nhận, có quyền nghỉ, dĩ nhiên thất nghiệp, nếu chấp nhận công việc, vì không còn lối thoát nào khác, sẽ bị vét cạn công sức để nhận đồng lương, khác nào bị bóc lột công sức một cách có điều kiện mà không có luật lao động nào can thiệp.

Hệ thống bán hàng đa cấp cũng thế,ngay từ đầu, người tham gia cũng phải bỏ ra một số tiền mua hàng để được cấp thẻ chứng nhận nhân viên, muốn lấy lại số tiền đó và tiếp tục thu lợi từ sự khuyến khích của công ty, nhân viên phải đi khuyến dụ người thân, bạn bè lao vào thế chân để người giới thiệu hưởng được phần lợi nhuận; cứ thế mà bóc lột, lừa đảo lẫn nhau.

Một quốc gia giàu có bỏ tiền cho nước nhược tiểu vay mượn để đặt điều kiện có lợi, hoặc chiếm dụng công thổ khi nước nhỏ không đủ khả năng thanh toán nợ, đó cũng là hình thức bóc lột.Cá nhân cho cá nhân vay nặng lãi, không đủ khả năng chi trả, bị tước đoạt tài sản, bị bạo hành khống chế, thậm chi mất mạng, đó cũng là dạng bóc lột.

“Trung Quốc tuyển hàng trăm trẻ em siêu thông minh để phát triển robot sát thủ”

BIT là một trong những viện nghiên cứu vũ khí hàng đầu của Trung Quốc và sự ra mắt của chương trình mới này là bằng chứng về mục tiêu phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cho mục đích chạy đua quân sự.

Một giáo sư tại BIT cho biết: “Những đứa trẻ này đều rất thông minh, nhưng chỉ thông minh thôi là chưa đủ. Chúng tôi đang tìm kiếm những phẩm chất khác như tư duy sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu, kiên trì khi đối mặt với thử thách. Bên cạnh đó họ cũng cần có một niềm đam mê phát triển vũ khí mới, họ cũng phải là những người yêu nước.”

Những tổ chức mang tính chính trị và quân sự như vậy, người tham gia không đơn thuần nổ lực đóng góp tố chất thông minh, mà còn được giáo dục, điều hướng sang mục tiêu đòi hỏi của chuyên ngành, bấy giờ phải tận dụng chất xám theo tiêu chuẩn yêu cầu. Những chuyên viên kỷ thuật làm việc quá sức, bị áp lực đưa đến khủng hoảng hoặc trầm cảm. Nhất là các nước tiến bộ về kỷ nghệ, tiến bộ về khoa học kỷ thuật, nhân viên thường bị áp lực nặng; từ sự vượt bậc mọi mặt để đưa đất nước đến thịnh vượng, mọi ngành nghề đều phải cố gắng tiến độ để bắt kịp yêu cầu của xã hội, đó là một áp lực, và áp lực đưa đến tình trạng tự sát, sát hại tập thể, thần kinh bất bình thường, hoặc sử dụng cần sa để giảm thiểu mọi áp lực.

                                               ***

Những quốc gia công nghiệp hiện đại đều xuất hiện những tình trạng căng thẳng như thế, các tôn giáo cổ truyền  thuần túy tín ngưỡng như Kito giáo khó mà đóng góp  đưa đến cân bằng tinh thần cho xã hội. Rất may, mặc dù hậu bán thế kỷ 19, khái niệm về Phật giáo đã du nhập vào phương Tây, nhưng mãi đến thế kỷ XX, Suzuki và một số học giả đã truyền bá tư tưởng Phật học và Thiền tông vào xã hội lúc bấy giờ. Phật giáo chỉ bén rễ trong giới trí thức và học thuật. Khi Tây Tạng bị Trung Cộng xâm chiếm, đức Đạt Lai Lạt Ma tỵ nạn tại Bắc Ấn, ngài đã chu du các nước phương Tây, kêu gọi giải quyết Tây Tạng bằng biện pháp hòa bình, đồng thời phổ biến tinh thần từ bi, tính tương ái trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng chưa được lan tỏa, đến khi, Thiền sư Thích Nhất Hạnh khởi xướng “hiện pháp lạc trú”, từng bước chân an lạc, đã giảm nhiệt sự căng thẳng cho xã hội công nghiệp Âu Mỹ; tinh thần an trú đó đã giúp mọi giới, từ trí thức đến bình dân, từ nghị sĩ đến quân đội, từ chính phủ đến các tổ chức phi chính phủ, tu sĩ, nhân sĩ các tôn giáo, thậm chí các thành phần đối lập giữa các quốc gia cũng tham gia những khóa tu để tự làm chủ cảm xúc trước những căng thẳng trong cuộc sống, bình thản trước những bức bách, giúp giải quyết mọi việc một cách bình tĩnh và có trách nhiệm. Những tù nhân cũng đã tìm được hướng đi cho chính mình một cách hài hòa khi tái hội nhập vào xã hội. “ Làng Mai” trở thành một danh hiệu khi nhắc đến pháp hành của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, chính vì thế, người là một trong 25 danh nhân thế giới được khắc tượng và vinh danh, từng được đề bạt giải Nobel hòa bình bởi mục sư Martin Luther King.

Pháp môn Làng Mai có một ảnh hưởng và đóng góp không nhỏ trong đời sống các quốc gia công nghiệp, giải tỏa stress đối với những bức bách của nghiệp vụ; cho dù không phải là giải thoát hoàn toàn, nhưng ít ra giải thoát được những hệ lụy mà các quốc gia tăng trưởng đang phải đối mặt, “từng bước chân an lạc” đã thiết lập cỏi Tịnh độ hiện hữu. Kinh Pháp cú, phẩm An lạc: 197.

“Vui thay,chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù!”

 

201.“Chiến thắng sinh thù oán,
Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc.
Bỏ sau mọi thắng bại.”

                                                   ***

Tâm hồn thảnh thơi an lạc thì cuộc sống sẽ an lạc; Nguyễn Du tiên sinh đã bảo – “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nhà Phật bảo: “nhất thiết duy tâm tạo”. Buồn vui, bất an, hạnh phúc đều do tự tâm. Tâm bị lôi cuốn vào cuộc sống loạn động thì bản thân ắt phải bất an, tâm biết dừng lại với nhịp điệu từ tốn thì cuộc sống bớt bị giao động.

Thế giới lao vào cuộc đua vũ trang, cạnh tranh làm bá chủ, vận dụng mưu mô xảo trí, chất xám hướng vào mục tiêu sát phạt, chèn lấn lẫn nhau; những kế sách được gọi là khôn ngoan, sáng tạo thiếu tính khoan dung đạo đức đều là thảm họa của nhân loại.Từ cá nhân đến cá nhân, từ lãnh đạo một tổ chức đến lãnh đạo một quốc gia, mọi hành xử không đặt trên nền tản đạo đức và nhân quả, tất yếu đưa đến hổn loạn. Hóa giải là phương án trên tinh thần đạo đức dễ chinh phục lòng người hơn là trấn áp trừng phạt. Trừng phạt, trấn áp đã xem đối tượng là một tội phạm theo quan điểm luật pháp, nhưng hóa giải là cách tìm hiểu nguyên nhân phạm tội của tội phạm để chuyển hóa trên tinh thần tù bi.Tình thương đó đã hóa giải được hận thù.

Tóm lại, con người ngày nay sử dụng trí thông minh và tận dụng trí thông minh theo tham vọng. Nếu xây dựng trí thông minh song hành với tinh thần đạo đức mà cha ông ta từng làm, tuy thắng ngoại xâm phương Bắc, không những bằng mưu lược và sức mạnh, vua quan ta thể hiện nhân từ với tù binh, tạo mối giao hảo làm cho địch quân tâm phục, thì chắc chắn cái thông minh và tinh thần đạo đức tạo thế bền vững, hài hòa cho cuộc sống lâu dài.

Thông minh thiếu đạo đức là mối họa cho bản thân lẫn xã hội. Nhân loại ngày nay trọng dụng trí thông minh mà bỏ quên đạo đức sẽ đưa đến hổn loạn và họa diệt vong. Thông minh và đạo đức là tố chất tối cần cho cuộc sống.

MINH MẪN

19/11/2018  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 51633)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9434)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12380)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15126)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12699)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13068)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9934)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
03/03/2010(Xem: 9819)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
08/01/2009(Xem: 12584)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567