Nhìn Phật giáo qua Khoa học
Tác giả: Uông Trí Biểu
Dịch giả: Thích Tuệ Đăng
---o0o---
LỜI ĐẦU SÁCH
Phật pháp là một Học lý cao siêu, mầu nhiệm và thực tiễn, bao gồm hết các Pháp ở thế gian, không một bài học thuyết tư tưởng nào ngoài Phật pháp cả. Bởi thế, khi nhìn Phật pháp, nhà triết học bảo đạo Phật là triết học thuần tuý, nhà tôn giáo cho rằng một tôn giáo hoàn toàn, rồi gần đây khi khoa học bắt đầu nẩy nở, các Khoa học gia lại nói: Đạo Phật sao mà khoa học thế!
Tuy giáo pháp của Đức Phật bao la, song không ngoài mục đích đưa con người đến chỗ giải thoát cứu kính. Đức Phật dạy: “Cũng như nước trong đại dương chỉ có một chất mặn, giáo pháp của Ta cũng chỉ có một hương vị giải thoát”. Do đó, khi nghiên cứu và tu học Phật pháp, tất cả mọi người, thuộc đủ các giới, đều được thoả mãn nhu cầu tinh thần, rồi tuỳ theo khả năng , đứng trên lập trường chuyên môn của mình, đem giáo lý của Đức Phật truyền bá, giải thích và trình bày đúng theo chính pháp của Phật.
Tác giả cuốn sách nhỏ này là Ông Uông Trí Biểu, một nhà khoa học Trung Hoa, đã đứng trên lập trường khoa học để khách quan so sánh và trình bày mấy điểm tương đồng giữa Phật pháp với Khoa học. Cuốn sách này tuy chưa mấy đầy đủ, nhưng với lối diễn giải mới mẻ của tác giả, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm khả dĩ giúp ích cho các nhà trí thức và Phật tử Việt Nam, muốn tìm hiểu về Phật pháp; nên chúng tôi đã cố gắng dịch ra tiếng Việt để hiến quý vị cùng nhận định về tư tưởng của những nhà khoa học nước ngoài đối với Phật giáo.
Nhan đề của cuốn sách la “Nhìn Phật giáo qua Khoa học”,tất nhiên nội dung sẽ nói nhiều về khoa học, mà khoa học thì ngoài phạm vi chuyên môn của chúng tôi, bởi thế, trong khi dịch, chắc chắn không thể tránh khỏi những điểm sơ suất, nếu có chỗ nào sai lầm, kính xin các bậc cao minh phủ chính.
Trân trọng
Saigon, mùa Thu, năm 1961
Dịch giả: THÍCH TUỆ ĐĂNG
TỰA
Phật Giáo thường bị coi như một Tôn giáo đầy mê tín, vì người ta chỉ căn cứ vào một mớ hình thức phức tạp bên ngoài để phán xét. Họ thấy những pho tượng Phật sơn son, thếp vàng và nghe tiếng chuông mõ, trống phách, thì cho đó là sùng bái ngẫu tượng; lại thấy cách sinh hoạt hoạt của Tăng, Ni trong các tự viện, thì cho họ là những ký sinh trùng của xã hội. Nhưng có biết đâu trong Phật giáo bất cứ cái gì cũng căn cứ vào lý luận, mà lý luận đó lại vô cùng cao sâu, không phải chỉ nói qua là hiểu ngay, mà cần phải có một sức học tương đối, vững chắc, mới có thể thấu suốt được.
Những người cho Phật giáo là mê tín thì chính họ đã pham lỗi mê tín rồi, vì họ chưa từng tìm hiểu giáo lý của đạo Phật một cách triệt để, ngay đến những điều phổ thông, thường thức trong Phật giáo họ cũng không biết, chỉ thấy người ta nói, cũng nói theo, đó mới thật là kẻ mê tín, tin theo lời nói hồ đồ của người khác.
Ta có thể nói Phật giáo là một tôn giáo, nhưng cũng có thể nói Phật giáo không phải tôn giáo, điều đó cần nên định nghĩa hai chữ Tôn giáo như thế nào đã. Nếu theo nghĩa căn bản của chữ Religion (tôn giáo) là sùng bái Nhất thần hoặc Đa thần, thì Phật giáo hoàn toàn không phải là một tôn giáo, vì Phật giáo không chủ trương thần quyền. Còn nếu theo nghĩa rộng của hai chữ đó: Phàm cái gì có tôn chỉ có giáo lý như Khổng giáo, Lão giáo chẳng hạn đều có thể gọi là tôn giáo, thì ta cũng có thể nói Phật giáo là một tôn giáo.
Từ sau khi khoa học tiến bộ, những tôn giáo sùng bái Nhất thần hoặc Đa thần đều bị khoa học công kích, duy có Phật giáo thì khác hẳn: Khoa học càng xương mình thì giáo lý Phật giáo càng rực rỡ, sáng tỏ. Mấy năm gần đây, Phật giáo tại các nước trên thế giới ngày càng hưng thịnh có thể so sánh với sự tiến triễn của khoa học. Ngay ở nước ta (Trung Hoa) mấy năm gần đây, trong số tín đồ Phật giáo, ta thấy có rất nhiều các nhà bác học, khoa học và kỹ sư. Điều đó không có gì là lạ cả, vì lý luận của Phật pháp rất phù hợp với các khoa học thực nghiệm, cho nên những khám phá của khoa học càng tiến sâu bao nhiêu thì càng dễ thuyết minh những chân lý trong các kinh điển của Phật mà từ trước chưa ai giải thích được. Tất cả những cái mà người tầm thường cho Phật giáo là mê tín thì ngày nay khoa học đã chứng minh cho lời dạy của Đức Phật đều y cứ trên những lý luận rất vững vàng. Quyển “NHÌN PHẬT GIÁO QUA KHOA HỌC” này sẽ trình bày về những nhận xét ấy.
UÔNG TRÍ BIỂU
THIÊN THỨ NHẤT
PHẬT GIÁO
LÀ MỘT TÔN GIÁO THUẦN LÝ TRÍ
Người ta cho rằng khoa học là sản vật của lý trí thì người ta cũng phải nhìn nhận rằng Phật giáo cũng là sản vật của lý trí. Vì cũng là nhũng sản vật của lý trí, nên đứng về phương diện khoa học mà nhìn Phật giáo,thì ta thấy được rõ ràng và chính xác hơn là đứng trên lập trường Triết học, Văn học, Chính trị và Kinh tế. Khoa học đã từng diệt trừ sự ngu muội và cởi mở được lòng mê chấp của con người trải mấy ngàn năm. Phật giáo đối với nhân loại cũng đã có những cống hiến như thế.
A.- PHÁ TRỪ SỰ MÊ LẦM ĐEN TỐI:
Loài người xưa nay có rất nhiều ngộ nhận, không dùng lý trí mà suy xét kỹ càng thì sẽ luôn luôn bị những sự ngộ nhận ấy mê hoặc làm cho đã lầm lẫn lại càng lầm lẫn thêm. Một thí dụ rất đơn giản là: từ xưa, phần nhiều người ta thường cho rằng trái đất hình dẹp, hoặc vuông và đứng yên một chỗ, còn mặt trời thì xoay chuyển, nhưng các nhà khoa học lại chứng minh rằng trái đất hình tròn, không phải đứng yên một chỗ, mà xoay quanh mặt trời. Về vấn đề Nhật thực và Nguyệt thực, xưa kia người ta cho là rất thần bí, nhưng ngày nay ai cũng biết rằng Nhật thực là mặt trời bị mặt trăng che khuất, còn Nguyệt thực là mặt trăng bị bóng trái đất che đi, và người ta có thể tính trước được thời khắc của Nhật thực và Nguyệt thực. Tôi còn nhớ ở đầu quyển Kỷ hà học, có mấy thí dụ chưng minh những sự thấy lầm của con mắt, trong đó có một thí dụ là: Vẽ hai đường trực tuyến song song dài bằng nhau, rồi trên đầu hai đường trực tuyến ấy, ta vẽ thêm hai dấu: < > và > <, sẽ khiến cho người ta thấy dường như một đường dài, một đường ngắn. Căn cứ vào chứng minh đó, nếu ta chỉ dựa vào con mắt để phân biệt dài ngắn là sai. Còn nói về ban đêm, chúng ta để mắt nhìn những vì sao trên vòm trời, tưởng như những vì sao ấy tồn tại và đứng yên một chỗ nhất đinh, nhung các nhà Thiên văn học cho biết có rất nhiều vì sao cách xa trái đất của ta vô cùng, không thể dùng cây số để tính mà phải dùng đến tốc lực của ánh sáng và niên số gọi là quang niên. Mỗi quang niên là : 300.000 cs một giây nhân với số giây trong một năm, vậy mà có những ngôi sao cách xa trái đất của ta hàng mấy mươi quang niên. Bởi thế lúc ta nhìn thấy ngôi sao thì ánh sáng của nó đã phát ra hàng mấy mươi năm về trước rồi, và hiện bây giờ ngôi sao đó đã biến đi nơi nào mà ta không biết.
Lại như khi ta thấy những bàn ghế, bút nghiên và mâm chén trong nhà đều là những vật cứng chắc và đứng yên, không chuyển động, nhưng các nhà Vật lý học cho rằng nguyên tử của những vật đó cùng với một Thái dương hệ không khác. Điện tử xoay quanh hạch nguyên tử nhanh bằng tốc độ của ánh sáng, mà nguyên tử với nguyên tử cũng luôn luôn chuyển động không ngừng. Giữa nguyên tử với nguyên tử, giữa nguyên tử với hạch nguyên tử , cũng để lại một khoảng trống khổng lồ. Trong khi điện tử và nguyên tử của những vật đó chuyển động như vậy, mà bề ngoài ta thấy vẫn im lìm, bất động. Như thế đủ biết, con mắt của ta không thể nào thấy rõ được chân tướng của vật thể, mà dùng đến lý trí mới có thể tìm ra một giải đáp chính xác.
Phật giáo cũng đã sửa chính rất nhiều sự nhận lầm như vậy. Kinh Phật dạy trong vũ trụ có ba ngàn đại thiên thế giới, như thế phải có tới cả triệu Thái dương hệ. Cũng may mà các bậc vua chúa nước ta đều có cái phong khí đại độ, không mang tội vô đạo mà huỷ hoại kinh Phật như trường hợp ông Nicolaus Copernicus đã phải chịu. Hiện nay, các nhà Thiên văn học nhờ có kính viễn vọng, đã chứng minh rằng trên trời có vô số Hành tinh, mà mỗi Hành tinh là một Thái dương hệ! Lại như trong thơ, văn nước ta thường nói đến câu: “Mặt trăng có mờ, tỏ, khuyết, tròn”. Sự khuyết, tròn của mặt trăng chẳng qua là sự nhận lầm của cổ nhân đó thôi, nếu mặt trăng quả có khuyết, tròn thì ai đục cho khuyết? Ai vá cho tròn? Trong kinh Phật không nói trăng khuyết, trăng tròn, mà chỉ nói “bạch nguyệt” và “hắc nguyệt”. Đó là Phật đã thuyết minh cái chân lý: mặt trăng nhờ mặt trời phản chiếu mới phát ra ánh sáng vậy.
Những người chưa từng bao giờ đọc qua về sinh lý học đều cho rằng trong thân thể mỗi người, chỉ có cái “TA” duy nhất, độc chiếm, mà không biết trong đó có vô số vi trùng đang tranh giành thụ hưởng. Hơn 2.500 năm vê trước, Đức Phật cũng đã dạy trong thân thể con người chứa hàng tổ vi trùng, nếu nói riêng thì có 80 loại vi trùng khác nhau, như trong kinh “Trị thiền bệnh bí yếu” và kinh “Chính pháp niệm xứ” đã chỉ bày tường tận. Trong kinh Phật không những chỉ nói đến tên của từng loại vi trùng, mà còn miêu tả rõ ràng động tác và hình thái của chúng. Nhưng trước khi khoa học chưa mấy phát đạt mà muốn cho mọi người tin theo thuyết ấy thì thật là một việc khó khăn. Tuy Phật đã nói rõ ràng như thế, mà Ngài còn tự nói rằng: “ Như Lai nói lời chân thật, lời nhất như; Như Lai không nói dối, không nói lập dị”. Những vi trùng quá nhỏ nhiệm đã không thể dùng mắt thịt mà thấy được, hơn nữa, thời bấy giờ chưa có kính hiển vi, thì làm thế nào khiến người ta tin theo một cách triệt để được? Ngày nay, những người đã hiểu qua về sinh lý học có thể tiếp nhận thyết đó một cách dễ dàng. Trong kinh Phật còn dạy: Trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn vi trùng, ngày nay điều đó không thành vấn đề nữa.
Ở vào thời kỳ đại đa số chưa được phát minh, người ta chỉ thừa nhận số chính mà không thừa nhận số phụ và số 0 (Zéro), lại không hiểu thế nào là huyễn số. Điều đó cho ta biết loài người thời bấy giờ đối với đại số nhận thức chưa được đầy đủ. Phật giáo đối với bất cứ quan niệm nào cũng viên dung cùng khắp, thí dụ nói về Xúc giác, thông thường người ta chỉ nhận thân có đụng với vật mới là Xúc, mà không biết Xúc rời thân cũng có thể biết được, nếu khi rời mà không biết nó rời, thì khi va chạm cũng sẽ không biết là nó va chạm. Bởi vậy những lúc va chạm thì trong kinh Phật gọi là “hợp xúc” mà lúc rời thì gọi là “ly xúc”, cũng như trong đại số, ngoài số chính ra, còn thừa nhận cả cả số không. Lại như nói: Vui thì cảm thấy vui, khổ thì cảm thấy khổ, còn không khổ, không vui thì gọi là “xả thụ”, ba thứ đó cũng tương đương với ba vị trí của số “chính”, “phụ” và “không”. Lại nói, ngoài thiện và ác ra, còn không thiện, không ác thì gọi là “vô ký”. Những điều trên đây chứng tỏ cách nói đầy đủ của Phật giáo, phù hợp với tinh thần khoa học, nhưng có chỗ còn siêu việt hơn.
Nhưng có một điểm mà khoa học và Phật giáo đếu phủ nhận, đó là thuyết Linh hồn. Một số người tin thuyết Linh hồn vì họ cho là: Thể xác con người là một vật chất, mà vật chất thì không có linh tri, bởi thế phải có linh hồn để làm chủ thể xác, cũng như một chiếc xe hơi, cần phải có người cầm lái điều khiển nó. Linh hồn đó ẩn trong thể xác, thể xác có linh hồn, con người mới sống, linh hồn rời thể xác thì con người chết. Thuyết ấy có vẽ như đúng, nhưng nếu đem Luận lý hay Nhân minh học mà xét nghiệm, ta sẽ thấy thuyết đó là sai. Chúng ta thử hỏi: Linh hồn ấy là một vật chất hay không là vật chất? Nếu nói là vật chất thì tất phải có hình tướng. Hiện nay Nhân thể giải phẩu học đã tiến bộ rất nhiều, người ta đã biết rõ ràng các bộ phận cấu tạo thành thân thể con người, ngay những tế bào nhỏ nhiệm nhất, người ta cũng đã biết tên gọi và tác dụng của nó; không một vật kỳ quái gì trong thân thể mà người ta không biết. Vậy nếu nói trước khi giải phẩu hoặc lúc người ta gần chết, linh hồn đó đã rời khỏi thể xác rồi, song nếu linh hồn đã là vật chất thì không có năng lực tác động và quyết không thể tự rời khỏi được, còn nếu phải nhờ nhiệt lực của thể xác để đẩy nó ra, thì tất người ta phải tìm thấy nó ở xung quanh người chết. Hơn nữa, vật chất vốn không có tri giác, mà linh hồn đã là vật chất, thì sao thể xác lại phải cần một vật vô tri khác làm chủ thể? Nếu nói vật chất có tri giác, cần gì phải nương vào một vật có tri giác khác làm chủ thể? Cho nên, nếu nói linh hồn là một vật chất thì cái lý luận đó quyết không thể đứng vững. Nếu nói linh hồn đó không phải là vật chất thì thử hỏi: Cái vật phi vật chất ấy làm thế nào có thể đi lại, ra vào trong thể xác? Nếu nó đã có thể đi lại, ra vào thì không thể bảo nó phi vật chất được.
Phật giáo đã phủ nhận thuyết linh hồn, vậy thì cái gì làm chủ thể lúc sống và chịu luân hồi khi chết? Phật giáo quyết định cái đó là bản thể của vạn vật, nó không có hình tướng, không phải ở trong, cũng không ở ngoài, không đi ra cũng không đi vào, cái ấy Phật giáo tạm gọi là “thần thức”, “Phật tính”. Thần thức là chỉ bản thể khi còn bị vật dục che lấp, còn Phật tính là chi khi bản thể không còn bị vật dục ràng buộc, nhưng thực ra, tuy hai mà một, tuy một mà là hai. Về bản chất thì thần thức hay Phật tính khác hẳn với cái linh hồn mà một số người tin tưởng. Họ nhận là linh hồn có hình tướng, ở trong thể xác và có thể đi ra đi vào. Nhưng nói cho chí lý, thần thức hay Phật tính tuy không có hình tướng, không ở trong, không ở ngoài, không đi ra, không đi vào, song nếu gặp đủ duyên, nó vẫn có thể biểu hiện để hình thành vật thể có ra, có vào, có trong, có ngoài, có hình, có tướng, bởi thế ta không thể gọi nó là vật chất hay phi vật chất. Hiện nay các nhà khoa học đối với vấn đề này vẫn chưa đủ khả năng để giải đáp, mà chỉ nói một cách mập mờ: “Chưa biết rõ việc đó”, nhưng Phật giáo thì dùng “hiện lượng” mà chính Đức Phật đã chứng minh được để nói rõ sự thị phi và mổ xẻ điều chân, ngụy, đồng thời chỉ dạy chúng ta những phương pháp tu hành để cầu chứng chân lý.
Khoa học và Phật giáo chính là hai ngọn đèn sáng của nhân loại hôm nay, đã phá mọi sự ngu tối và lòng mê chấp , khiến cho trí tuệ của con người luôn phát triễn không ngừng, hầu đạt tới chỗ giác ngộ tuyệt đối. Đáng tiếc khoa học hiện đại chi hạn cuộc trong phạm vi tìm hiểu vât chất mà ít lưu tâm đến vấn đề tinh thần, nếu không nhờ ngọn đèn sáng của Phật giáo thì không thể diệt trừ được sự mê lầm, tăm tối. Bàn về vấn đề tâm lý khi mọi cảm giác của những quan năng con người đã lắng sâu trong tiềm thức, thì mọi cảm giác sẽ gây nên rất nhiều tác dụng tâm lý mà luận Bách Pháp Minh Môn gọi là “Tâm sở hữu pháp”. Vấn đề này Phật giáo đã nghiên cứu một cách rất rõ ràng, tâm lý học hiện đại không thể theo kịp. Thí dụ khi ta nghe một nhạc sĩ diễn tấu một bản nhạc, nhi thức phân biệt những nhịp điệu, ý thức cũng theo đó mà phân biệt những tình tiết, do đấy phát khởi nhiều “tâm sở” khiến ta cảm thấy dịu dàng, êm tai, rồi sinh ra các thứ ảo tưởng, nhân thế mới khởi tâm ưa thích và lưu luyến (nói theo danh từ Duy Thức Học thì đó là những Tâm sở: xúc, tác ý, thụ tưởng, tư, tham, si và phóng dật). Đó là đối với những người biết thưởng thức và đã hiểu qua âm nhạc mà nói, còn với những người không hiểu gì về âm nhạc, khi nghe môt bản nhạc, họ không biết nhịp điệu, cũng không hiểu được những tình tiết, chỉ cảm thấy the thé bên tai, chẳng những họ không khởi tâm ưa thích mà còn chán ghét là khác. Nếu phân tích theo vật lý học thì khúc nhạc đó chẳng qua chỉ là nhưng làn sóng không khí nối tiếp nhau, bao gồm những âm ba nặng nhẹ trầm, bổng (gọi là hài ba), rồi rung chuyển qua màng tai đó thôi. Tuy hiện lượng của nhĩ căn là thế, nhĩ thức phân biệt những nhịp điệu, ý thức phân biệt những tình tiết, nhưng trong những âm thanh trầm, bổng, nặng, nhẹ của cung đàn, ta không thể nào tìm thấy sự phân biệt ấy, cảm giác ưa thích hay chán ghét thì tuyệt nhiên cũng không phải do cung đàn gây nên. Chúng ta thường quên hẳn điểm đó, rồi cho cái mà nhĩ thức và ý thức phân biệt được từ lớp sóng không khí nối nhau trên cung đàn kia là thật có. Đó là một sự sai lầm lớn đối với chúng ta. Sự lầm lẫn ấy đã ăn sâu vào tủy não của ta từ lúc nào mà ta không hay biết, ngoài Phật giáo ra, không ai có thể chỉ cho thấy chỗ sai lầm đó. Có khi cùng một khúc nhạc mà mọi người cảm thấy lúc thì trầm buồn, lúc lại vui tươi, rồi cho khúc nhạc ấy thật có trầm buồn và vui tươi, nhưng không biết rằng đó chỉ là do thức biến mà thôi. Một ví dụ khác như hành hay củ kiệu những người thích ăn thì cho là thơm, người không ưa lại cho là hôi, thật ra thì chính hành hay củ kiệu không có thơm, hôi chỉ do sự ưa, ghét của người ta mà có khác.
B.- DỨT BỎ TÌNH CẢM THẤP HÈN:
Có thể nói Phật giáo chuyên chú tìm những sự sai lầm và ảo tưởng của cuộc đời rồi sửa chỉnh cho hợp lý, khiến cho con người thẳng tiến trên đường giác ngộ. Đứng về phương diện khoa học, có thể nói Phật giáo thuần là lý trí, nên Phật giáo hoàn toàn phù hợp với khoa học. Triết học tuy cũng đặc biệt chú trọng về lý trí, nhưng trên phương diện lập thuyết và lý luận, cũng không khỏi có thiên lệch: Bỏ chủ trương chung, theo ý kiến riêng; các nhà xã hội học thì lại càng không tránh khỏi điểm đó. Về mặt Văn học và Nghệ thuật thì thiên trọng về tình cảm, một khi đã nặng về tình cảm thì phải coi nhẹ lý trí, cho nên bình luận về giá trị của văn học và nghệ thuật thì nghìn đời cũng không có được định luật xác thực. Tình cảm và lý trí thường lấn át nhau, khi một người bị tình cảm xung động, lý trí thường vì thế mà giảm bớt, cũng có thể nói người đó bị tình cảm làm cho mù quáng. Trái lại, khi lý trí phát động mạnh thì tình cảm (như sợ hãi, tham muốn, v.v…) cũng giảm bớt. Lý trí như ánh sáng mặt trời. Tình cảm như áng mây nổi. Tình thương con tuy là một tình cảm tha thiết, cũng có khi khiến cho cha mẹ phán đoán hành vi của con cái một cách sai lầm. Tình yêu Tổ quốc, tuy không phải là tình yêu riêng tư, nhưng cũng rất dễ lấn át lý trí mà gây nên thảm họa. Mối tình luyến ái nồng nàn giữa trai, gái đôi khi cũng đưa đến những hành động bất trí, có khi đến chết vì tình một cách ngu xuẩn.
Dưới con mắt của Phật giáo thì những tình cảm đó tuy có chia ra công , tư, khinh, trọng nhưng cũng là một loại si ái, và đều phải nên coi nhẹ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói, cứ xem hai thứ Tình và Tường sẽ biết chúng sinh phải nổi chìm trong sáu ngả ra sao: Tư tưởng nhiều thì nổi (lên), tình ái nhiều thì chìm (xuống), thuần tư tưởng thì sinh lên các cõi trời, thuần tình ái sẽ sa đọa địa ngục, tư tưởng và tình ái ngang nhau thì sinh ở cõi người.
Thái độ nghiên cứu của nhà Khoa học thì không hề xen lẫn một chút tình cảm nào mà trái lại, rất thiên trọng ở sức tưởng tượng. Sở dĩ người ta biết được sự cấu tạo của nguyên tử, sự vận hành của các vì tinh tú, tìm ra điện ba, từ thạch và sáng chế các loại máy móc vô cùng phức tạp, đều là nhờ vào sức tưởng tượng mà có. Kỷ hà học, một khoa học dùng sức tưởng tượng nhiều nhất. Người học khoa này trước hết họ tưởng tượng trên không trung có 3 mặt phẳng thấu ánh sáng xuôi thẳng xuống mà giao nhau, rồi theo đó gạch ra 8 tượng hạn. Rồi lại tưởng tượng ở mỗi tượng hạn có một loại khúc tuyến (đường cong), một mặt phẳng hay một loại lập thể nào đó. Cuối cùng lại tưởng tượng có 3 luồng quang tuyến từ 3 phương hướng chiếu thẳng vào 3 mặt phẳng cơ bản, do đó người ta tưởng ra trên mỗi mặt phẳng đều có đầu ảnh (Cast shadow) của một đường tuyến , môt mặt phẳng hay của một lập thể. Ba đầu ảnh này hiện trên các họa đồ về cơ giới hay kiến trúc gọi là chính diện đồ, trắc diện đồ và bình diện đồ. Nếu lại tưởng tượng dùng một mặt phẳng, y theo giác độ mà cắt thành một lập thể (cơ khí hoặc một vật kiến trúc), rồi theo đường tuyến trên mặt phẳng bị cắt tiếp giáp với một lập thể mà vẽ thành họa đồ, thì gọi là cắt diện đồ hoặc phẫu diện đồ. Sức tưởng tượng đó đối với một người thực tập thuần túy khoa học hoặc ứng dụng khoa học vô cùng hệ trọng mà tuyệt đối không cần vẽ mỹ quan. . Ngay đến chữ viết trên các họa đồ cũng chỉ cần đơn giản, chỉnh tề, theo lối kỹ thuật chứ không cần phải theo thể văn hoa bay bướm.
Trong Phật giáo dạy người ta lợi dụng sức tưởng tượng để tu hành, rất có nhiều phương pháp. Chẳng hạn trong phép Ngũ đình tâm (năm phương pháp quán tưởng như sau):
1.- Bất tịnh quán(quán các pháp là bất tịnh)
2.- Sổ tức quán(đếm hơi thở để tịnh tâm)
3.- Từ bi quán(quán lòng từ bi)
4.- Nhân duyên quán(quán các pháp do nhân duyên sinh)
5.- Giới phân biệt quán(quán giới phân biệt để ngăn chặn ngã kiến)
Ngoài ra, còn có Pháp Không quán, Duy thức quán, Pháp giới quán, Viên đốn quán, và trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật còn đề ra 16 phép quán tưởng khác nữa, trong đó có các phép quán tưởng về giáo nghĩa của Phật, và cũng có các phép quán tưởng về hình thái của vật chất. Như đối tượng của Bất định quán là sự cấu tạo của thân thể con người, đối tượng của Cửu tưởng quán là quá trình tan rã, thối nát của thân thể sau khi chết. Phép thứ nhất trong 16 phép quán gọi là Lạc nhật quán, dạy người ta quán tưởng vừng hồng (mặt trời) khuất núi, cả những lúc nhắm mắt cũng như lúc mở mắt đều thấy được một cách rõ ràng, thấu đáo. Từ phép quán thứ hai trở đi, dạy người ta quán tưởng nhân vật và các cảnh tượng ở thế giới Cực Lạc. Những phép quán tưởng đó cũng đúng như sức tưởng tượng trong đầu ảnh Kỷ hà học. Vì tác giả đã thực tập qua đầu ảnh Kỷ hà, nên lúc thực hành phép Lạc nhất quán không thấy đến nổi khó khăn lắm. Cư sĩ Vương Tiểu Tường, mới qua đời ngày gần đây, cũng rất thích phép quán thứ nhất và thứ hai, vì cư sĩ cũng đã thực tập đầu ảnh Kỷ hà, nên mới quán tưởng được dễ dàng. Nhưng trong khi thực hành các phép quán tưởng, phải luyện cho có một sức tưởng tượng cao độ, đừng xen lẫn một chút tình cảm nào, như lòng tham đắm, yêu ghét, sợ hãi thương xót v.v… nếu không sẽ bị ma lực lôi cuốn một cách rất nguy hiểm.
C.- PHÁT KHỞI CHÍNH TÍN.
Nhà học giả LƯƠNG KHẢI SIÊU nói: “Phật giáo là trí tin chứ không phải mê tín”.Câu nói rất đúng. Cái mà Phật giáo gọi là “tín ngưỡng” là chỉ cho một việc gì lý trí có thể suy đoán được mà trên thực tế có khi chưa chứng nghiệm, đối với tín ngưỡng của các tôn giáo khác hòn toàn bất đồng. Tín đồ Phật giáo tin rằng: Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật; trong Phật tính đó có đầy đủ các pháp, bản lai vẫn trong sạch, vẳng lặng, không sinh, không diệt; vạn sự vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh, vốn không có tự tính, chỉ do tâm thức biến hiện.
Mục đích tín ngưỡng của Phật giáo là đạt tới đạo Vô thượng chính đẳng, chính giác, đló là sự phát triễn trí tuệ đến một địa vị cao siêu tuyệt vời và cũng là sự tiến hóa của con người đạt đến cảnh giới hoàn toàn viên mãn. Nếu ta đem tín ngưỡng của các tôn giáo khác, dạy tín đồ phải tin tưởng vào một đấng vạn năng, bắt họ phải cam phận làm con cái Ngài, tiêu hủy cá tính, vất bỏ chủ quyền và chôn vùi lý trí của chính mình, mà so sánh với tín ngưỡng của Phật giáo thì thật là cách xa một trời một vực.
Đức Phật dạy chúng ta: “Các người cũng có đầy đủ trí tuệ, đức tướng như Phật, chỉ vì các người bị ngũ dục và tà niệm che lấp mà không chứng ngộ, nên phải chịu các nỗi khổ đau mà không được giải thoát”. Nhận định lời Phật dạy trên, ta thấy giữa Phật và chúng sinh vốn không sai khác. Chúng ta hãy khởi lòng tự trọng, phát tâm tinh tiến, dũng mãnh, chăm tu các phép lành, để cầu đạt tới chỗ chính đẳng chính giác. Chúng ta không thể tin tưởng ở bất cứ tôn giáo nào khác thường nói rằng, chúng ta là do một vị thần sáng tạo, vị thần có đó có toàn quyền thưởng phạt mà chúng ta chỉ là những tên nô lệ, hầu hạ chủ nhân; nếu chúng ta ngoan ngoãn tuân lệnh chủ nhân thì khi chết sẽ được sinh lên trời, mà cũng chỉ là con cái Ngài chứ không được ngang hàng với Ngài. Thử hỏi những người có khí khái trượng phu, có thể chịu nổi sự nhục nhã ấy không?
Các nhà khoa học tựa hồ chỉ chú trọng lý trí mà không nói đến tín ngưỡng , nhưng xét cho kỹ thì khoa học cũng có tín ngưỡng. Trong khi ta học vật lý và hóa học, những việc mà ta đem ra thực nghiệm chỉ là một phần trăm, nghìn của toàn bộ Lý học; như thế thì chúng ta có đợi đến khi thực nghiệm hết thảy rồi mới tin những học thuyêt ấy không? Hay không cần đợi đến khi thực nghhiệm hoàn toàn mà chúng ta vẫn cứ tin? Sự thật thì chúng ta đều đã chấp nhận trường hợp sau này mà tin theo một cách chắc chắn rồi, vì chúng ta đều đã dùng lý trí phán đoán mà hiểu hết các lý luận và không bao giờ các nhà khoa học lừa dối ta, cho nên mặc dầu có nhiều việc chính ta chưa chính nghiệm được, nhưng ta vẫn có thể tin tưởng được. Bởi thế nhà khoa học cũng có tín ngưỡng của họ, họ tin vào cái công lý mà mọi người thừa nhận để diễn dịch ra những lý luận phức tạp mà ai cũng phải công nhận là chân lý. Họ tin ở giả định hoặc lý luận mà họ đã quy nạp, mặc dầu trước kia lệ ngoại mới chưa tìm thấy, nhưng ít nhất cũng có thể nhận đó là chân lý thích ứng với tình trạng hiện tại.
Họ tin rằng hết thảy sự vật biến hóa đều phải chịu sự chi phối của luật nhân quả, không một vật gì có thể tự nhiên phát sinh, cũng không do một đấng sáng tạo nào gây nên nhất là không phải do Thần quyền làm chủ tể.
Thái độ tín ngưỡng của Phật giáo đồ cũng đúng hợp như thái độ của nhà khoa học. Vì họ đã dùng lý trí để tìm hiểu lý luận trong Phật giáo mà không thấy một chỗ nào trái với luận lý học cả, lại cũng không thể tìm thấy một lý do lừa dối nào, cho nên, mặc dầu có nhiều việc chính họ chưa thể chứng nghiệm được, nhưng họ vẫn tin một cách chắc chắn và quả quyết. Thí dụ về vấn đề Phật tính thì đại đa số tín đồ Phật giáo chưa có thể chứng nghiệm được, nhưng chíinh tin rằng đức Phật nói là đúng, không lừa dối ai, rồi nhờ vào giáo pháp mà tu hành để mong đi đến chỗ thực chứng. Một ngày kia, nếu chúng ta đã tự chứng được thì lúc đó đã thành sự thực. Tin hay không tin sẽ không thành vấn đề nữa.
Thí dụ ta nói: Khi đói lòng ăn cơm sẽ no, điều đó ai ai cũng biết, không cần phải khuyên người ta tin. Nhưng nếu tôi nói: Khi đói lòng ngậm một vài viên thuốc bổ gì đó cũng có thể no, điều đó nếu không dùng luận cứ của học lý thì không thể khiến người ta tin được, nếu không thì chỉ có thể khuyên người ta thí nghiệm mà thôi. Thảng hoặc không có thuốc để thí nghiệm hay không có ai chịu thí nghiệm, cái đó không sao, miễn là tôi chỉ phải đưa ra những lý do đầy đủ thì cũng có thể có người tin. Nếu tôi nói: Khi tôi đói lòng chỉ cần người khác ăn cơm là tôi thấy no, thì lời nói đó không cần phải thí nghiệm hay không thí nghiệm, hoặc giả tôi có viện ra những lý do gì chăng nữa, người ta cũng không thể tin được. Bởi thế có một số nhà tôn giáo nói rằng: một người chịu nạn chết có thể chuộc tội cho muôn loài, thì lời nói đó làmthế nào khiến người ta tin được? Mà nếu có người tin chăng nữa cũng chỉ là mê tín mà thôi. /.
*
THIÊN THỨ HAI
TINH THẦN NGHIÊN CỨU
CỦA PHẬT GIÁO
Phật giáo dạy người ta tin, nhưng cũng dạy cho người ta sự hoài nghi. Trong kinh nói: “ Hoài nghi lớn thì sự giác ngộ lớn, hoài nghi nhỏ giác ngộ nhỏ, không hoài nghi thì sẽ không bao giờ có được giác ngộ. Nói “tin” là phải tin ở lời nói, câu văn mà nghĩa lý của nó rõ ràng minh bạch; còn “nghi” là phải hoài nghi những lời nói, câu văn mù mờ, không diễn đạt được ý nghĩa một cách sáng sủa. Trong Thiền tôn dạy người ta đưa ra một nghị án, rồi để hết tâm trí vào việc tìm hiểu, cho đến khi công phu, thành thục, thì tự nhiên sẽ có kết quả. Phạm vi nghiên cứu của Phật giáo rất rộng nên sự tìm hiểu cũng rất lớn. Thông thường, người ta cho các nhà Khoa học là những người hoài nghi và lúc nào cũng muốn tìm hiểu vấn đề là “Tại sao?” nhưng sự thực không phải thế.
Các nhà Khoa học phần nhiều chỉ hỏi: “Cái gi?” mà không dám hỏi: “Tại sao?”. Có lẽ chỉ có Phật giáo là dám hỏi: “Tại sao?” mà thôi. Thí dụ nhà diện học chỉ thuyết minh được rằng: Sắt được tôi luyện đúng phương pháp sẽ phát sinh từ lực (sức hút của từ thạch), nhưng lại không dám hỏi: Tại sao sắt phát sinh từ lực mà đồng được tôi luyện đúng phương pháp lại không phát ra từ lực? Lại như ai cũng biết rằng nước nóng tới 100 độ thì bốc thành hơi nóng, nhà khoa học chỉ nói thế thôi chứ không nói rõ tại sao nước phải có tiềm nhiệt mới biến thành hơi nóng, và tại sao tiềm nhiệt đó có thể tiềm tàng trong hơi nước. Đây một thí dụ nữa. Newton đã tìm ra hấp lực của trái đất lại nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai nói rõ tại sao trái đất có hấp lực? Bởi thế ta không nên tin tưởng một cách mù quáng rằng: Tất cả các vấn đề “tại sao?” trên thế giới này đều đã được khoa học giải đáp? Thật ra chỉ nói về phương diện vật chất thôi, cũng vẫn còn bao nhiêu là cái “tại sao?” mà xưa nay chưa ai giải đáp, cũng như xưa nay chưa ai dám đặt một câu hỏi: “Tại sao?” vậy.
Phật giáo đồ quả thật là những người can đảm và thông minh, họ giống như một con sư tử khi bị bắn không thèm nhìn đến mũi tên mà chỉ cần tìm xem mũi tên đó từ đâu mà đến. Phât giáo đối với mọi vấn đề đều tìm đến cái nguyên nhân, nghĩa là phải tìm cho ra lẽ “Tại sao?” của mọi sự vật. Đến như vấn đề nhân sinh, vũ trụ thì không phải chỉ đứng về phương diện vật chất mà có thể giải đáp được, mà phải nghiên cứu về cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần mới mong đạt đến kết quả mỹ mãn. Bởi thế tinh thần nghiên cứu của Phật giáo so với khoa học thật là vĩ đại.
A.- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp nghiên cứu của khoa học cũng không ngoài hai phương pháp quy nạp và diễn dịch trong Luận lý học. Quy nạp là theo cái công dụng biến hóa của sự vật để tìm ra một định luật chung ma noi theo; diễn dịch là cái công lý đã biết hoặc quy luật đã được chứng thực để tìm ra lý luận chưa biết. Nhà khoa học sử dụng hai phương pháp đó một cách vô cùng thận trọng, nhưng đôi khi cái kết quả thâu lượm được chưa hẳn đã đáng tin cậy. Chẳng hạn trong công thức vạn hữu dẫn lực của Newton không ghi thêm tốc lực vận chuyển của vật thể, cũng như hai định luật: Vật chất không tiêu diệt, năng lực không tiêu diệt là sai lầm vậy. Nhưng nếu người ta theo phương pháp diễn dịch để thành lập một môn toán học thì không có mối tệ ấy, là vì họ đã căn cứ vào lý luận cơ bản, tuy lý luận đó chưa phải là cái tịnh trí hiện lượng trong Phật giáo, song không trái với hiện lượng thế gian, cho nên dưới mắt Phật giáo đồ có thể nhận là chân thực vậy.
Phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong Phật giáo so với phương pháp của các khoa học còn thận trọng hơn nhiều. Theo nội minh của Phật giáo, nếu muốn cho chân tướng của sự vật được biểu hiện rõ ràng thì cần phải tránh xa hai cái chướng ngại phiền phức và sở tri của Tịnh trí hiện lượng.
Muốn cho dễ hiểu ta không thể không lùi lại một bước để dẫn chứng hai môn hiện lượng và tỷ lượng trong Nhân minh học, vì hai môn đó rất phù hợp với lý trí khoa học và cũng đã được tất cả mọi người thừa nhận. Tam tri thức trong Nhân minh học và tam đoạn luận trong Luận lý học rất giống nhau, chỉ có thứ thự thì khác nhau. Theo Nhân minh học thì trước hết là “Tôn”, thứ đến “Nhân” và sau hết là “Dụ”; Luận lý học trước hết nêu lên “Đại tiền đề”, thứ đến “Tiểu tiền đề” là “Nhân” và “Đại tiền đề” là “Dụ”.
Tôi xin nêu ra sau đây:
I.- TAM ĐOẠN LUẬN TRONG LUẬN LÝ HỌC
1. Đại tiền đề: Phàm vật kim thuộc đều có tính truyền điện.
2. Tiểu tiền đề: Nhôm là một vật kim thuộc.
3. Đoạn án: Bởi thế nhôm có tính truyền điện.
II.- TAM TRI THỨC TRONG NHÂN MINH HỌC
1. Tôn: Nhôm có tính truyền điện
2. Nhân: Vì nhân là một vật kim thuộc.
3. Dụ:
a) Đồng dụ: hiện thấy tất cả vật gì thuộc loại kim đều có tính truyền điện.
b) Dị dụ:hiện thấy những vật gì không có tính truyền điện thì không phải thuộc loại kim (như đồ sứ).
Hai phương pháp suy luận trên, trừ “Đại tiền đề” và “Dụ” có hơi khác, còn ngoài ra đều giống nhau. Chi thứ ba “Dụ” trong Nhân minh chia ra “Đồng dụ” và “Dị dụ” so với “Đại tiền đề” có phần chu đáo hơn, vả lại trong chi “Dụ” không dùng chữ “Phàm” mà đặc biệt lại dùng hai chữ “HIện thấy” thì so với “Đại tiền đề” cũng có phần linh hoạt mà không sai. Chi “Dụ” trong Nhân minh là một phương pháp quy nạp rất thỏa đáng. “Đại tiền đề” dùng chữ “phàm” không khỏi có tính cách võ đoán, vì nhôm có tính truyền điện hay không còn phải chờ suy đoán mới biết, vậy tại sao trước khi chưa có sự đoán định rõ ràng, đã dám nói “phàm” vật gì thuộc kim đều có tính truyền điện. Cho nên khi biện luận, dùng “tam đoạn luận” không được mạnh và vững vàng bằng Nhân minh. Do đó ta thấy phương pháp nghiên cứu được sử dụngtrong Phật giáo rất nghiêm mật và có phần chắc chắn hơn phương pháp của khoa học khác.
B. CÔNG CỤ DÙNG ĐỂ NGHIÊN CỨU:
Khi nghiên cứu, các nhà nghiên cứu khoa học rất chú trọng đến việc sử dụng công cụ, họ biết rằng ba khí quan: mắt, tay và thân (còn mũi, lưỡi không cần thiết trong viêc nghiên cứu khoa học, nên ở đây xin miễn nói đến) không thể phân biệt một cách tinh tế về mực độ mờ, tỏ của ánh sáng; trầm, bổng của âm thanh; cao, thấp của sức nóng và cứng, mềm của sức rắn. Hơn nữa, sức phân biệt của mỗi người không giống nhau, không có tiêu chuẩn,cho nên người ta đã nghĩ ra rất nhiều máy móc, như: máy đo ánh sáng (trắc quang kế), máy đo âm hưởng (âm xoa), máy đo làn sóng động (ba động nghi), máy đo sức cứng (ngạnh độ kế), hàn thử biểu, nhiệt lượng biểu, v,v,,, rồi nhờ vào sức cảm thụ của các máy móc đó mà biểu thị số lượng để tránh sự lầm lẫn, chủ quan.
Ngoài ra còn có thiên văn kính để trắc lượng các vì tinh tú, hiển vi kính để quan sát các loài vi khuẩn cực kỳ nhỏ nhiệm. Lại như sức điện, sóng điện và sức hút của từ thạch và những cái mà quan năng con người không thể cảm giác được, cho nên phải có loại máy móc như điện kế và từ trường để mà trắc lượng. Lại còn có những máy đo giác độ của kinh tuyến, vĩ tuyến, máy đo độ đặc, lỏng và nặng, nhẹ của dịch thể, máy đo trọng lượng, máy tính thời gian v.v… đều là những máy móc cực kỳ tinh xảo. Nhờ những máy móc tinh vi ấy mà các nhà khoa học đã tìm được số lượng đơn vị của vật thể, do đó, dùng phương pháp diễn dịch của toán học mà tìm ra mối quan hệ giữa các số lượng đơn vị, rồi vẽ thành các đồ biểu để thuyết minh sự biến hóa của vật thể.
Các nhà khoa học cũng biết rằng mình có sự lầm lẫn nên mới nghĩ ra phương pháp sữa chữa. Nhà khoa học dùng máy móc để bổ khuyết cho sự thiếu sót của các khí quan, rồi lại dùng lý trí để sữa chữa sự sai lầm của máy móc, nhưng vạn nhất mà lý trí có chỗ lầm lẫn thì làm thế nào để sữa chữa? Xưa nay các nhà khoa học, chưa bao giờ hoài nghi đến điểm đó, và cũng không muốn hoặc cũng không dám nêu nó lên mà chỉ phó mặc cho các nhà triết học phỏng đoán hồ đồ và các nhà tôn giáo nói thần, nói quỷ. Phật giáo coi vấn đề đó là công cụ trọng yếu nhất trong các công cụ, là nghi khi tiêu chuẩn cho tất cả máy móc, là tấm gương phản chiếu hết thảy vật tượng, nếu công cụ chủ yếu đó mà mất hiệu lực thì tiêu chuẩn của máy móc mất tính chính xác, và tấm gương kia đã bị một lớp bụi phủ mờ, thì hết thảy đều không phải là chân tướng.
Phật giáo cho ta biết rằng bản thể của chúng sinh trong sáng như tấm gương cùng với tâm thể của Phật giáo không khác, nhưng chỉ vì tấm gương ấy đã bị bụi bậm phủ mờ, mất hết công dụng chiếu sáng, nên cần phải lau chùi mới mong làm cho bản thể đó sáng tỏ trở lại. Ba tạng kinh điển của Phật giáo tuy nhiều như rừng biển, song cũng không ngoài mục đích chỉ dạy cho chúng ta các phương pháp “tẩy sạch” bụi nhơ cho bản thể của tấm gương kia trở lại sáng suốt, khiến chúng ta thấu triệt được chân lý của nhân sinh vũ trụ. Nhưng cái công phu “tẩy sạch” ấy thực không phải đơn giản, nó cũng cần đến công cụ và phương pháp.
Hiện nay, trong các chùa cảnh đều có tượng Phật, chuông mỏ, phan phướng, hương hoa, đèn nến mà một số người ngộ nhận cho là mê tín, nhưng đó chính là những công cụ để “tẩy sạch” vậy. Trong các chùa thuộc Mật Tôn, cách bài trí còn lạ lùng hơn nữa, khiến người ta có cảm tưởng như thần bí , nhưng kỳ thực trong Phật giáo không có cái gì gọi là thần bí cả, hết thảy mọi sự đều căn cứ trên lý trí, chỉ vì lý luận quá cao siêu, khiến một số người không thể hiểu được một cách dễ dàng. Lại xem như cách chuyên cần niệm Phật của Tịnh độ tôn, cách ngồi yên lặng để quán tưởng của Thiền tôn, cách khai trương truyền giới của Luật tôn v.v…, hết thẩy đều là công phu “tẩy sạch”, cho nên, ở đây, tác giả xin thành khẩn khuyên độc giả, đối với những điều kiện kể trên đừng cho là mê tín, chớ sinh lòng khinh miệt, cũng đừng tưởng là thần bí, mà nên hiểu rằng trong Phật giáo, nhất cử, nhất động, mọi sự mọi việc đều phát ra từ nơi đại giác tịnh trí. Phật pháp cũng ví như nước cam lồ: Giọt nào cũng ngọt ngào, như ngọc ma ni châu; mặt nào cũng tròn trặn, độc giả hay thử dùng một giọt, sẽ thấy lời nói đó là đúng.
C.- ĐỐI TƯỢNG CỦA SỰ NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của nhà khoa học là sự cấu tạo của vật chất, sự vận chuyển, biến hóa của vật chất, sự giao biến giữa vật với vật và sự quan hệ giữa các số lượng phát sinh từ sự biến hóa. Nói theo danh từ trong Phật giáo thì đó mới chỉ là nghiên cứu đến các PHÁP “bất tương ưng” với nhau mà trong luận Bách Pháp Minh Môn gọi là sắc pháp, thời gian, phương hướng chuyển động và thứ lớp, chứ chưa hề đã động đến tâm vương, tâm sở của tâm pháp.
(Xin coi Duy thức luận sẽ thấy thế nào là tâm vương và tâm sở). So sánh sắc pháp với tâm pháp thì sắc pháp rất chậm chạp, không như tâm pháp sinh diệt, biến hóa linh hoạt một cách phi thường, không dễ dàng nắm bắt hoặc tìm tòi được nó như sắc pháp. Tuy sắc pháp đơn giản như thế mà các nhà khoa học vẫn chưa nghiên cứu được một cách tổng quát và thỏa đáng. Như có sự biến động của hiện tượng thuộc loại A, chịu ảnh hưởng của một hay nhiều hiện tượng thuộc loại B, C,D chỉ cần đình chỉ động tác của hiện tượng C, D chỉ để một mình hiện tượng B hoạt động, rồi sau mới tìm ra nhân quả quan hệ giữa hai hiện tượng A, B. Thí dụ như cường độ dòng điện là chịu ảnh hưởng của sức điện động và điện trở, nếu muốn biết sự quan hệ giữa cường độ dòng điện và điện trở thì phải đình chỉ sự hoạt động của sức điện động. Bởi thế, đối tượng nghiên cứu của nhà khoa học chỉ là tìm phương pháp làm cho sự biến hóa của sự vật phức tạp trở nên đơn giản chứ không thể trong một lúc nghiên cứu cả sự biến hóa cho đến nơi đến chốn.
Phật giáo cũng áp dụng phương pháp đơn giản hóa đối tượng nghiên cứu đó. Đối tượng mà Phật giáo nghiên cứu không phải chỉ là sắc pháp mà là cái thể hỗn hợp của cả sắc pháp và tâm pháp, sự biến hóa của nó so với sự biến hóa của sắc pháp còn phức tạp và rối ren hơn nhiều, cho nên khhi nghiên cứu cũng cần phải đơn giản hóa đối tượng đó. Hiện nay Pháp môn thịnh hành nhất trong Phật giáo là pháp môn Niệm Phật, tức là làm cho sức chú ý tập trung vào sáu chữ: “Nam Mô A Di Đà Phật”, đừng để cho tán loạn. Lại như Thiền tôn dạy hành giả tìm hiểu câu: “Khi cha mẹ chưa sinh ra ta là ai?”, và vô số pháp môn tiền quán khác, cũng không ngàoi mục đích giữ cho tư tưởng tập trung vào một chỗ. Đến khi tác dụng của cái tâm đã từ nơi đơn giản ấy mà đến được chỗ chính định rồi, thì cũng như gió yên sóng lặng, mặt nước như gương, rồi dùng gương ấy chiếu vào hết thẩy vật tượng, tự nhiên thấy được chân tướng, cái tâm ấy hoàn toàn khác với cái tâm tán loạn rối bời của ta. Cái tâm tán loạn của ta ví như mặt nước bị gió thổi thành sóng, giao động chập chờn, lẽ dĩ nhiên là không thể phản chiếu được chân tướng của sự vật.
Phương pháp giản dị hóa của khoa học nói trên, áp dụng vào việc nghiên cứu các vật vô tình thì không sao, nhưng nếu áp dụng cho các vật hữu tình, như nghiên cứu các loại phản ứng về sinh lý hoặc tâm lý thì sẽ gặp phải sự khó khăn. Hiện nay khoa giải phẫu học tuy tiến bộ rất nhiều, đã hiểu rõ được các bộ phận cơ năng của thân thể con người, nhưng khoa học đó đã biến thành khoa nghiên cứu xác chết chứ không còn là khoa nghiên cứu hoạt thể nữa; vì trong thân thể con người không những chỉ gồm có những nhân tố vật chất vô cùng phức tạp, mà còn có không biết bao nhiêu nhân tố tinh thần cũng phức tạp không kém. Lúc thân thể còn sống, người nghiên cứu không có cách nào đình chỉ sự hoạt động của những nhân tố đó, cho nên khó có thể tìm ra được một sự quan hệ đơn giản nào. Nếu những nhân tố đó còn sống mà muốn tìm cho ra một động thái hoạt bát của Tâm va Sắc hỗn hợp,thì nhà khoa học cũng phải bó tay. Đối với vấn đề đó duy chỉ cách tu Định, Tuệ của Phật giáo mới có thể giải quyết được./.
*
THIÊN THỨ BA
BÌNH ĐẲNG QUAN CỦA PHẬT GIÁO
Bình đẳng là danh từ hiện nay người ta thường luôn luôn bàn đến, nhưng với ý nghĩa còn trong phạm vi cục hạn hẹp hòi, vì chỉ nói và áp dụng nó trong địa hạt chính trị, kinh tế, cơ hội giáo dục, quyển lợi nam nữ, mà không thể giảng cứu được đến triệt để của nghĩa chữ Bình đẳng. Phần nhân sinh lại có rất nhiều sai khác như luận về Gia thế, Tướng mạo, Phẩm tính, Trí tuệ, Thể cách thì có sang hèn, tốt xấu, cứng mềm, khôn dại, mạnh yếu, còn về căn bản thì chưa thể bình đẳng được. Nhưng nói theo giáo nghĩa Phật giáo, đó chẳng qua sự sai biệt của giả tướng, chứ nói đến lý thể của nó thì thật ra, bình đẳng tuyệt đối. Cho nên Kinh Phật nói “Tâm, Phật, chúng sinh; cả ba đều không sai khác và bình đẳng trong bình đẳng”. Phật giáo nói bình đẳng không phải chỉ trong một bộ phận, mà là bình đẳng toàn diện. Không riêng nói bình đẳng giữa người với người, bình đẳng giữa Phật với Phật, mà người với Phật, người với động vật, người với Thiên thần quỷ ngục đều là bình đẳng. Không riêng nói loài hữu tình bình đẳng, mà tất cả Tâm pháp, tất cả Sắc pháp, Tâm pháp và Sắc pháp, Nhân pháp và Quả pháp, không cái gì là không bình đẳng. Nghĩa là “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp”. Song chúng sinh vì có tướng sai biệt, nên mờ mất Bản tính, sinh tâm điên đảo tà kiến, rồi lầm thấy tất cả đều sai biệt, chứ thật ra hết thẩy Bản tính đều y nhiên bình đẳng, chưa từng thay đổi; đó là nền gôc lý luận của Phật giáo, toàn bộ giáo nghĩa cũng đều từ đó mà sinh ra.
A.- GIẢ TƯỚNG CỦA NHÂN NGÃ.
Phật giáo nói thân người là do năm uẩn tập hợp thành; năm uẩn là năm nhân tố: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc thuộc vật chất; Thụ, Tưởng, Hành, Thức là bốn món tác dụng thuộc tâm. Thụ là sức cảm thụ khổ, sướng, buồn, vui; Tưởng là sức tư tưởng hoặc tưởng tượng; Hành là hành vi và tâm lý tạo tác ra Thiện hay Ác; Thức là sức phân biệt hoặc phán đoán các sự việc. Nếu đem phương diện vật chất ra để cứu xét thì, thân thể của mỗi người không ngoài da, lông, xương, thịt, máu, dãi, và nếu đem đến nhà Hóa học thí nghiệm để phân tích, thì kết quả không thứ gì là không do một nhóm lớn nguyên tử là Thán, Khí, Dưỡng, Đạm , Lân, Giáp, Cái, Thiết v,v… kết hợp mà thành. Thân thể của bạn như thế, thân thể của tôi như thế, cho đến thân thể các động vật trên thế giới tất cả cũng đếu như thế. Tôi không thể nói Nguyên tử Thiết (sắt) trong thân thể của tôi và trong thân thể của bạn có gì khác nhau. Lại đứng về phương diện tinh thần mà luận, Thầy Mạnh Tử trước đã nói: “Cái lòng thương xót người đều có đấy, cái lòng hổ thẹn người đều có đấy, cái lòng phải trái người đều có đấy, cái lòng khiêm nhượng người đều có đấy”. Đó là nói bất cứ người nào cũng đều có đủ bốn món tác dụng tinh thần: Thụ, Tưởng, Hành, Thức. Suy ra nữa đến các loài động vật tuy cái tác dụng Tưởng, Hành, Thức không mạnh bằng loài người nhưng cái tình cảm Thụ khổ, vui thì thật là rõ ràng và dễ thấy. Từ loài cao đẳng động vật đến loài hạ đẳng động vật, không vật nào là chẳng biểu thị cái tâm tình tham sống sợ chết, tránh khổ tìm vui. Cho nên Đức Phật nói tất cả hữu tình đều có đủ Phật tính, bình đẳng không hai. Thế mà chúng ta cứ chấp theo cái thân thể do năm uẩn tập hợp vọng sinh ra các thứ chấp: Ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái v.v…, rồi đem cái ngã để đối chiếu với người, và cho đó là tuyêt nhiên không đồng, đối với cái giả ngã thì hết sức cung phụng bao nhiêu cũng chẳng đủ, nên từ nơi này qua nơi khác để mưu tìm danh dự lợi ích, sao cho tất cả đều trở về phần mình, thậm chí không tiếc sát hại chúng sinh, lấy máu thịt của chúng để cung nuôi miệng. Nếu có người nào hơi làm tổn hại đến danh dự lợi ích của giả ngã, thì sinh tâm hờn giận, phiền não, và không tiếc đem toàn lực ra để cùng người tranh đấu, nếu sức lực không đủ, thì lại dùng cái tâm mánh lới, thủ đoạn, uy quyền, lừa dối để mong có ngày thủ thắng. Họ có biết đâu Ngã vốn là giải ngã, dịch cũng chẳng phải là thật dịch, một ngày nào đó ngộ được lý này, người ta mới cảm thấy sự chấp trước kia là phi lý.
Kinh Phật dạy: “Nhân duyên sinh các pháp, Ta nói tức là không, pháp ấy là giả danh, danh ấy là trung đạo nghĩa”. Hiện nay người đời bị chấp đắm vào cái Ngã tức là Thân ngũ uẩn do nhân duyên sinh. Ở phần Tâm pháp là Thụ, Tưởng, Hành, Thức đã không thể sinh ra cái ngã; ở phần vật chất là lông, da, xương, thịt, máu, dãi cũng chẳng sinh ra cái Ngã được, đến như trong những hạt nguyên tử cũng lại không thể thấy được cái ngã. Bởi vậy nói đến chỗ tuyệt đối thì cái ngã tướng ấy là không, nhưng nói theo nghĩa thế tục, thì tạm đặt ra cái giả danh ấy là có. Song điều cần nhất là chúng ta không nên sinh tâm chấp trược, và không khởi ra ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, xem người với ta là bình đẳng nhất thể, chỉ biềt vì tất cả chúng sinh mưu tìm lợi ích; đó mới là làm theo Trung đạo và thực hành đúng giáo nghĩa của Phật gíao vậy. Tiến lên một bước nữa, Phật giáo không những nói người không có ngã tướng , mà đến tất cả Pháp cũng không có ngã tướng. Nói Pháp không có ngã tướng tức là Pháp không có tự tính, bởi vì hết thảy Pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh; nếu Pháp có tự tính hoặc thật thể thì bất tất phải đợi đến chứng duyên sinh; chẳng những vật chất là như thế, mà đến tất cả Danh từ, tất cả Học thuyết, tất cả Chủ nghĩa cũng đều như thế cả. Ví như quốc gia là do ba nhân tố: Đất cát, nhân dân, chủ quyền hòa hợp mà thành, nếu mất đi một hay chỉ có một trong ba nhân tố đều không thể gọi là quốc gia, và nếu tách rời ba nhân tố ra thì quốc gia đều không có tự thể. Vì nó không có tự thể, nên nói quốc gia là giả tướng do ba nhân tố mà sinh ra. Lại như quân đội cũng không có tự thể, vì thật ra, đó chẳng qua là một đoàn người thuộc trăm họ đã chịu việc huấn luyện và võ trang về quân sự đó thôi. Chúng ta quan niệm như thế, mới có thể hiểu rõ được chân tướng của sự vật, mà không bị giả tướng làm mê hoặc, và sinh ra các tà kiến. Cũng thế, đến như tất cả học thuyết không môn nào là không do một nhóm danh từ tập hợp lại thì đâu có phải là thật thể của Chân thường bất biến. Hiện nay có rất ít người cởi bỏ được cái giả tưởng ràng buộc của Nhân ngã, Pháp ngã để nhận lấy cái chân thật làm nơi nương tựa; người đó, trong Phật pháp gọi là “ngu si”, là “đáng thương xót”. Có người gạn hỏi: “Nếu quả thế thì Phật pháp cũng không có tự tính, là không, là giả rồi sao?” Đáp: “Đúng vậy, không sai, và có nhận xét như thế mới là người hiểu rõ Phật pháp ”. Kinh Kim Cương dạy” “Gọi là Phật pháp, tức không phải Phật pháp”. Lại nói: “Nếu người nào nói Như Lai có thuyết pháp, tức là báng Phật, không hiểu được điều Ta nói vậy. Này ông Tu bồ đề, thuyết pháp là không có Pháp để thuyết, đó gọi là thuyết pháp”. Phật vì chúng sinh mà thuyết pháp là bởi chúng sinh ngu si, chúng sinh có nhiều phiền não tà kiến nên Phật nói ra nhiều Pháp môn để đối trị. Vì thế, Phật pháp là kiến lập trên phương diện ngu si của chúng sinh, nếu chúng sinh hết ngu si thì Phật pháp cũng không còn nữa.
B.- CHÂN NGHĨA CHỮ KHÁCH QUAN.
Muốn tìm hiểu chân nghĩa một sự vật gì, người ta thường hay dùng hai chữ Khách quan, và cho đó là tinh thần Khoa học; nhưng thật ra, hai chữ đó chưa mấy ai nghiên cứu được đến triệt để. Vậy nói theo Phật giáo thì đã có quan (xem xét) tức phải có năng quan (người xem xét) và sở quan (vật bị xem xét). Năng quan là chủ, sở quan là Pháp, nên hễ có sở quan tất thị là Chủ quan. Còn nói khách quan, thì nó là hữu tình hay vô tình? Nếu nói là vô tình thì không có quan, mà nói hữu tình thì quan ấy là Chủ quan. Chủ với khách không có giới hạn nhất định, đối với ta thì họ là khách, nhưng đối với họ thì họ là chủ. Cho nên hai chữ khách quan mà thế tục thường nói đều chưa phải rốt ráo. Bây giờ theo nghĩa thế tục để nói thì, khách quan không ngoài ba điểm:
1) Không có cảm tình xen lẫn.
2) Y theo nơi sự thực được công nhận.
3) Căn cứ vào lý trí để phán đoán.
Người thế tục chỉ căn cứ ở ba điểm ấy đã cho là khách quan rồi, nhưng nói tới chỗ rốt ráo của Phật giáo thì thứ Khách quan ấy chưa phải là triệt để. Phật giáo cho rằng tất cả các Pháp bản lai vốn thanh tịnh , bình đẳng, chỉ vì chúng sinh ngu si nên ở trong tướng thanh tịnh bình đẳng lầm thấy có ngã tướng, chấp làm thật có. Vì thế đối với tất cả sự vật chung quanh, ta đều chấp cho là không phải ta đích thực. Phàm cái gì phi ngã mà thuận với ta thì sinh lòng tham ái, nghịch với ta thì sinh ra ghen ghét. Chúng sinh này như thế, chúng sinh khác tất cả đều như thế; do đó ta đã đánh mất cái bản lai thanh tịnh, bìn đẳng, mà biến thành vẩn đục và bất bình đẳng. Ví như một ao nước mùa xuân đang và thanh bình như gương, bỗng đem hòn đá ném vào trong ao, khiến trên mặt nước thành ra vô số những lớp hình vòng tròn, mỗi một cái vòng tròn ví như một ngã tướng của chúng sinh, từ trung tâm đó lại khởi ra vô số những làn sóng hình tròn, dần dần lan rộng ra ngoài, vì những làn sóng hình tròn xung kích lẫn nhau, khiến mặt nước đang thanh tịnh bình đẳng sinh ra cái tướng vẫn đục bất bình. Sự bất bình ấy làm cho không môt phần tử nước nào trên mặt nước là không phải chịu ảnh hưởng sóng động của các trung tâm kia. Chỉ một ví dụ này ta có thể xét biết tất cả sự vật trên thế giới không vật nào là không có chủ quan chúng sinh xen lẫn vào trong đó, như thế không thể được là sự lý khách quan, vì do rất nhiều sự lý chủ quan dệt lại mà thành. Cho nên phải dùng số lượng của Nghi khí mới có thể đo lường và công thức của toán học mới có thể tính ra, nhưng cũng không lìa khỏi chủ quan được. Chỉ bao giờ Ngã tướng tiêu diệt, năng quan và sở quan chấm hết, nhiên hậu mới thấy được thuần chân lý của khách quan. Không Ngã tướng và không Năng Sở, ví như mặt nước không có sóng, phẳng lặng như gương. Vật đến thì hình tượng hiện ra như thế mới thật là khách quan.
C.- TỪ BI VỚI BÁC ÁI.
Các nhà Tôn giáo xướng lên thuyết Bác ái, những nhà Học giả không bàn xét đến lý chân thật, đua nhau họa theo, và cho đó là thiên kinh địa nghĩa, Phật giáo chẳng những không nói Bác ái, mà còn cho là “ái” là cái nhân của khổ não và gốc của sự sinh tử. Vậy Phật giáo nói từ bi, các tôn giáo nói bác ái khác nhau ở điểm nào?
Xin trả lời rằng: Hai thuyết này ý nghĩa tuyệt nhiên không giống nhau; bởi vì đã gọi là “ái” (yêu), tất có năng ái (người yêu) và sở ái (kẻ được yêu), đã có năng sở (người yêu và kẻ được yêu), tất có Nhân Ngã (người và ta), lấy Ngã làm năng ái, Nhân làm sở ái. Đã có tướng Nhân Ngã, tức là có tâm phân biệt, yêu ta hơn yêu người, thế gian thường tình đếu như thế cả, đó gọi là tục kiến; nhưng nếu yêu người hơn yêu ta, thì cũng trở thành thiên kiến. Hơn nữa, đã gọi là “yêu”, tất phải có điều kiện để yêu, ví dụ: Ta yêu người kia vì tướng mạo đẹp, học vấn giỏi, phẩm tính tốt; nhưng tướng mạo, học vấn, phẩm tính không phải là cố định, chẳng phải là tuyệt đối; một mai theo thời gian biến đổi không còn đẹp, giỏi, tốt được như xưa hoặc chẳng được bằng người, thì sinh ra chán ghét không còn trở lại yêu người ấy nữa. Tiến thêm một bước để nói, cái gì ta yêu thì người khác cũng yêu, ta yêu nên lấy đó làm vật sở hữu của ta, và người khác phải mất cái vật để yêu của họ, vì ta được mà người mất, người được mà ta mất, cho nên sinh ra tâm ghen ghét, phát ra ở việc làm là giết hại, trộm cướp, dâm dục, và xét đến kết quả của nó là oán ghét nhau mà phải gẳp gỡ là khổ, cầu mong việc gì mà không được toại ý là khổ, yêu muốn mà phải xa lìa là khổ. Vì thế, Phật nói “Ái” là gốc của luân hồi sinh tử và nhân của ưu bi khổ não. “Ái” đã là cái nhân nhiễm trược, thì “Bác” dù có nghĩa là “rộng rãi” đến đâu đi nữa cũng không thế nào biến ô nhiễm làm thanh tịnh được. Đó là cái lý do Phật giáo không đề xướng thuyết “Bác ái”.
Lại có một câu nói cửa miệng là: “Ái Ngã Địch Nhân” (tôi yêu kẻ địch của tôi), đó là một câu nói mà các nhà tôn giáo thường đề cập đến. Nhưng thật ra, đã gọi là kẻ địch, ắt hẳn trong tâm đã có tướng đối địch,đối với tướng đối đich mà khởi ra tâm thù oán, hờn giận, ghen ghét, chứ quyết không thể sinh ra tâm vui mừng, hòa nhã thương yêu được; ví dù họ có miễn cưỡng thương yêu kẻ thù địch của họ đi nữa, đó chẳng qua cũng chỉ là cái tâm hư ngụy giả dối mà thôi. Phật giáo thì không bao giờ nói đến cái tâm ấy, mà chỉ dạy chúng ta đối đãi với bọn người làm não hại ta, trước hết, phải có quan niệm bình đẳng, mà không có tư tưởng đối địch, và cũng không cần yêu thương đến họ, mà chỉ nên khởi tâm đại bi đồng thể, bằng cách tìm mọi phương pháp làm cho họ tiêu tan cái tâm ác hại, chuyển thành cái tâm vui mừng, đó mới đúng là Phật pháp.
Nghĩachính của hai chữ Từ bi, theo Phật giáo giải thích: Từ là cho vui, Bi là cứu khổ. Từ bi không phải lấy cái “Ngã” làm trung tâm xuất phát mà kiến lập trên thể tướng bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Như vậy, Từ bi với Bác ái khác nhau. Ở trên đã nói, đứng về phương diên vật chất, thì tất cả chúng sinh đều cùng một thể không sai khác; đứng về phương diện tinh thần, thì tất cả chúng sinh đều có tâm thức, vả lại, tinh thần lại không có thể phân chia giới hạn được, như thế chứng tỏ là tất cả chúng sinh đều bình đắng nhất thể. Nên chữ Từ trong Phật giáo cũng gọi là Bình đẳng từ, Vô duyên từ, Bi là Đồng thể bi. Chúng ta khi luyện tập pháp “Từ bi quán” trước hết, phải quán nghĩ tất cả chúng sinh (trong đó có ta) là bình đẳng nhất thể, nếu thấy chúng sinh cần dùng vật gì, ta nên tùy phận, tùy sức giúp đỡ cho họ vật ấy khiến họ được đầy đủ và vui thích. Trong khi ta thí xả, cần nhất là không nên tưởng nghĩ rằng ta là người cho, kẻ kia là người được cho, và cũng
không nên tưởng nghĩ đến những tài vật mình cho nhiều hay ít; có như thế mới không sinh tâm ngã mạn không cầu danh dự, không mong báo đáp, không duyên với mọi tướng; đó mới gọi được là Vô duyên từ - Bình đẳng từ. Nếu thấy chúng sinh có điều gì đau khổ, không phân biệt kẻ kia với ta, và nên phát tâm đại bi, tùy phận, tùy sức để cứu giúp cho họ qua khỏi sự đau khổ. Trong khi ta cứu độ chúng sinh cũng không nên tưởng nghĩ đến tướng ta, tường người, không cầu danh dự báo đáp, không trụ vào mọi tướng, đó mới gọi được là Đồng thể đại bi.
Ta đã hiểu rõ lý luận của hai chũ Từ bi rồi, tự nhiên không còn giết hại chúng sinh để dinh dưỡng cơ thể, không còn lấy của cải phi nghĩa để tiêu xài xa phí, và cũng không còn tham yêu sắc đẹp để khởi tâm dâm dục. Bởi khi ta đã giác ngộ được mình với các loài vật như gà, vịt, trâu , bò v.v… đều cùng chung một bản thể, của cải sắc đẹp cũng không phải ngoài tâm ta mà có, cho đến người tham và vật bị tham cũng đếu không có nữa; song chúng sinh sỡ dĩ phạm vào tội Sát, Đạo, Dâm đó chẳng qua chỉ là do “ngu si” mà thôi. Lại nũa, sau khi ta hiểu rõ lý luận của từ bi rồi thì đối với những vô số sự tích cảm ứng của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không nên cho là mê tín và hư ngụy, vì ta biết rằng Pháp thân Bồ tát với bản tính chúng sinh là Bình đẳng nhất thể, cho nên, ta có cảm, thì Ngài có ứng, nhưng cần phải đầy đủ lòng chí thành khẩn thiết, bằng không thì sẽ sẽ bị tham dục phiền não làm chướng ngại, khó cùng với bản thể để tương ứng. Nếu Bồ Tát với bản tính chúng sinh là Bình đẳng nhật thể, cho nên, ta có cảm, thì Ngài có ứng, nhưng cần phải đầy đủ lòng chí thành khẩn thiết, bằng không thì sẽ bị tham dục phiền não làm chướng ngại, khó cùng với bản thể để tương ứng. Nếu Bồ Tát với bản tính chúng sinh không đồng nhất thể, cùng chiếm lấy một khoảng không gian nhất định, thì Bồ tát không thể tùy duyên ứng hiện và đi lại cõi nhân gian để cứu ứng những phiền muộn khổ não cho chúng sinh được.
D.- BIỆN BIỆT VỀ THIỆN ÁC.
‘Không làm các việc ác, thường làm các việc lành”, đó là hai câu mà đứa trẻ con ba bốn tuổi cũng có thể nói được. Và hai câu này, không những chỉ riêng Phật giáo chuyên dùng làm tiêu ngữ, mà các tôn giáo khác cũng đều nói như thế, bởi vậy có một số người không chịu nghiên cứu để tìm hiểu thêm hơn, liền căn cứ vào câu nói ấy, rồi cho rằng tất cả các tôn giáo đều là tốt, đều là khuyên người làm việc thiện, nhưng với người có đầu óc khoa học, thì không bao giờ họ chịu tin nhận được một cách mơ hồ giản dị như thế, mà ngược lại, họ cần hiểu biết bằng sự phân tích kỹ càng và đúng đắn.
Các tôn giáo định nghĩa hai chữ “Thiện Ác” ra sao?Tiêu chuẩn của Thiện Ác là gi. Mục đích khuyên người bỏ Ác làm Thiện thế nào?
1.- Định nghĩa hai chữ Thiện Ác: Các tôn giáo định nghĩa không nhất định, có tôn giáo cho sự cúng bái tổ tiên là Ác, nhưng Phật giáo và Nho giáo lại cho là Thiện. Có tôn giáo nói các loài động vật là do Tạo vật chủ sinh ra để cung cấp cho loài người, giết chúng và ăn thịt chúng đều không kể là Ác. Có tôn giáo chủ trương chỉ được ăn thịt một giống động vật trong các giống động vật khác, nếu ăn thịt nhiều giống động vật, thì mới kể là Ác, nhưng Phật giáo thì không cho phép giết hại một giống động vật nào, giết hại như vậy là Ác.
2. –Tiêu chuẩn của Thiện Ác: Các tôn giáo cũng bất nhất: phần lớn tôn giáo chỉ căn cứ vào giới điều của vị giáo chủ đã lập ra, bất cứ ai hễ phạm giới điều là Ác, nhưng Phật giáo thì chia giáo điều rất rõ ràng kỹ lưỡng, người tại gia có giới điều của người tại gia, hàng xuất gia có giới điều của hàng xuất gia, đến như tiêu chuẩn của Bồ tát giới với Tỳ khưu giới cũng lại khác nhau. Vậy nên có người tại gia phạm giới thì không phải là Ác, mà người xuất gia phạm cùng giới ấy lại kể là Ác. Có người giữ giới Tỳ khưu phạm luật không phải là Ác , nhưng người trì giới Bồ tát phạm cùng luật ấy lại kể là Ác.
3.- Mục đích khuyên người bỏ Ác làm Thiện: Các tôn giáo cũng không đồng : Có tôn giáo bỏ Ác làm Thiện để cầu sinh Thiên đường, có tôn giáo bỏ Ác làm Thiện để mong làm đấng Thánh bậc Hiền; nhưng Phật giáo bỏ Ác làm Thiện là để cầu giác ngộ chân lý bình đẳng tuyệt đối, chứ không cầu hưởng Ph. Do đó, khi xét bàn hai chữ Thiện Ác, thì ta không thể đơn giản như một số người đã tưởng tượng vậy.
Phật giáo, bàn về đạo lý Thiện Ác rất là tinh tế. Nói về Thiện có chia ra “HànhThiện” và “Chỉ Thiện”, “Hữu lậu Thiện” và “Vô lậu Thiện”. Hành Thiện là chỉ về việc Thiện tích cực. Hữu lậu Thiện là chỉ về việc Thiện còn lẫn lộn phiền não chưa được triệt để và thiếu sót, Vô lậu Thiện là chỉ việc Thiện không còn phiền não đã đến chỗ rốt ráo tròn đầy. Người thế gian đối với hai chữ Thiện Ác phần lớn chưa phân biệt được rõ ràng, cho nên, có một số người thường nói: “ Tôi chỉ thường làm việc theo lương tâm, tự hỏi tâm mình không trái hổ, và từ trước đến nay chưa làm việc gì ác”. Nhưng thật ra câu nói ấy đâu đã là phải hoàn toàn theo giáo nghĩa tròn đầy của Phật giáo (liễu nghĩa giáo), thì họ tuy tự nói rằng không làm việc ác, song kỳ thật trong một ngày từ sáng đến tối chưa giờ phút nào họ rời bỏ được Ngã si, Ngã kiến, Ngã mạn, Ngã ái, làm việc gì cũng chỉ mưu toan làm lợi ích cho riêng mình và tự gieo lấy hạt giống phiền não đau khổ. Vậy cái mà họ tự gọi là Lương tâm, là do sáu thức hư vọng phân biệt mà có, Phật giáo gọi là sáu kẻ giặc thường cướp đoạt gia bảo và não hại chúng sinh. Bởi họ đã chìm đắm sâu nặng trong vòng ngu muội, nên nhận giặc làm con; hằng ngày, hằng giờ tạo ra những nghiệp ác mà không tự biết. Cho nên một người muốn bỏ ác làm thiện, trước hết, phải hiểu rõ chân nghĩa của Thiện ác, nhiên hậu mới biết điều nào nên bỏ, điều nào nên làm. Muốn hiểu rõ chân nghĩa của Thiện ác, trước hết phải hiểu rõ “Bình đẳng quán” của Phật giáo. Chiếu theo “Bình đẳng quán” của Phật giáo thì tất cả chúng sinh đều là bình đẳng không có “Năng”, không có “Sở”, không có “Nhân”, không có “Ngã”. Chúng sinh vì ngu si nên ở trong cái không Nhân Ngã lầm chia ra có Nhân Ngã , bởi Ngã kiến đó mà sinh tâm Ngã mạn, cho ta là trọng yếu hơn người để được người kính yêu ta, rối đem hết sức mình ra thu vét lấy những vật chất có thể hưởng thụ để cung phụng cho “ta”, đó là cái đầu mối tạo ra mười thiện ác: Tham, sân, si, sát, đạo, dâm, lưỡng thiện, ác khẩu, vọng ngôn, ý ngữ; cho đến tất cả phiền não, tà kiến cũng đều từ đấy mà sinh ra. Nói cách dễ hiểu hơn, nếu còn Ngã kiến, thì bất luận đối với người, đối với mình lợi hại như thế nào, và tất cả tâm lý hành vi còn tương ứng với Ngã kiến thì đều là ác nghiệp; trái lại, nếu Ngã kiến không còn thì tất cả hành vi đều là Thiện nghiệp. Song vì chúng sinh từ đời vô thủy đến nay chứa góp “Ngã kiến” sâu nặng, nên Đức Phật đã dùng phương tiện thuyết pháp, dựng nên những tiêu chuẩn, để chúng sinh lần theo thứ lớp mà tu tập. Còn với tôn giáo khác không cho việc sát hại động vật là ác, thậm chí lại nói động vật có sinh mệnh mà không có linh tri, hoặc nói đó là đấng tạo vật sinh ra để cung cấp cho loài người ăn dùng, nói thế, chẳng những là không hiểu rõ chân lý mà còn là tà kiến nữa. Lại có tôn giáo cho việc tín ngưỡng một Thần hoặc nhiều Thần là Thiện, người tin thì được phúc sinh Thiên đường, người chẳng tin thì phải tội đọa địa ngục. Quan niệm này, theo Phật giáo, nếu xét về tín ngưỡng những thần đó, tức là trái với bình đẳng tính là Ác chứ không phải là Thiện. Lại nữa, Phật giáo chủ trương bất luận Thiện hay Ác đều từ trong tâm địa phát ra, chứ không như thế gian chỉ chú trọng vào sự tướng. Ví như ta thấy người này đánh hoặc mắng người kia, ta chưa thể căn cứ vào sự tướng ấy mà định đoạt được là Thiện hay Ác, ta cần phải xét rõ tâm địa của người ấy thế nào, nhiên hậu mới quyết đoán được. Nếu vì lợi ích cho người, thì tuy đánh mắng cũng vẫn là Thiện, nếu vì lợi ích riêng mình, thì dù cung kính người cũng lại là Ác. Theo trong Bố tát giới đàn thì, phàm người trì giới Bồ tát, đã phá trừ Ngã kiến, nhưng nếu vì lợi ích cho chúng sinh, thì dù làm những việc đánh mắng cho đến sát hại cũng không kể là ác và trái lại… Ví như trong nước có một ông vua tham bạo, ham tài, hiếu chiến, làm cho vô số nhân dân phải tổn thất gia tài, nguy vong tính mạng, người trì giới Bồ tát không thể khoanh tay đứng nhìn, mà phải đem hết trí lực ra để tìm cách can ngăn ông vua hung bạo ấy, nếu cần có thể đem giết đi cũng không phạm vào giới sát. Do đó mà chứng minh được rằng Phật giáo là một tôn giáo tích cực và hợp lý biết dường nào…/.
*
THIÊN THỨ TƯ
DUYÊN SINH QUAN CỦA PHẬT GIÁO
Bình đẳng quan của Phật giáo là chỉ Bản thể Chân như Phật tính, còn Duyên sinh quan của Phật giáo chỉ cho các hiện tượng Tâm, Vật y vào Bản thể đó mà giả hiện ra. Hai quan niệm đó là một, chỉ vì nói hết thảy các Pháp do Nhân duyên sinh, cho nên nói tự tính vốn không; vì tự tính vốn không, cho nên nói hết thảy các Pháp đều bình đẳng. Nếu nói các pháp là thực có, thì mỗi Pháp đều sai biệt, không thể biến thông, làm thế nào mà bình đẳng được? Bởi thế Duyên sinh quan của Phật giáo là một lý luận cơ bản giải thích sự biến hóa của vũ trụ vạn hữu, rất phù hợp với các lý luận khác. Khoa học hiện đại đang phát triễn, đặc biệt là cũng có thể chứng minh được Lý duyên sinh một cách không sai lầm. Trước khi khoa học chưa phát đạt, đối với vấn đề sinh khởi biến hóa của vũ trụ vạn hữu, đã có nhiều Học thuyết, trình bày khác nhau, nhưng nếu đem luật nhân quả mà Khoa học và Phật giáo cũng đã công nhận để phê phán thì những Học thuyết kia đều là tà thuyết hoang đường, không hợp lý. Ở đây tôi xin lựa chọn một vài thuyết phổ thông nhất để trình bày:
A.- TÀ THUYẾT TRÁI VỚI LUẬT NHÂN QUẢ.
Học thuyết này có thể chia ra bốn loại:
1.- Vô nhân luận.
2.- Bất bình đẳng nhân luận.
3.- Định mệnh luận.
4.- Cơ giới luận.
1. VÔ NHÂN LUẬN
Vô nhân luận là một học thuyết tấm thường, ngây ngô, đứng trên phương diện luận lý thì học thuyết đó không thể đứng vững. Giả sử hết thảy sự vật đều tự nhiên phát sinh, thì tại sao các thứ vàng, bạc, của báu không sinh sản tự nhiên, chúng ta cần gì phải nổ lực kinh doanh, phấn đấu? Có những người cứ ngồi không chờ đợi sự thành công, kết quả là đã thành một thói quen lười biến, phó mặc cho vận mệnh đưa đẩy, chẳng hạn những phường cờ bạc, lêu lỏng, đều do tâm lý đó mà sinh ra cả. Sở dĩ có người đặt ra thuyết ấy là vì cái nguyên nhân sinh thành của sự vật trong thế gian không thể dùng trí thức tầm thường, nông nổi mà tìm ra được. Họ thấy bề ngoài nhiều việc tựa hồ ngẫu nhiên phát sinh, nên họ có ý tưởng như vậy, chứ họ có biết đâu rằng sự biến hóa liên tiếp của sự vật đều tuân theo quy tắc Nhân quả nhất định.
Nhân quả vật chất tương đối còn đơn giản và dễ phân biệt, chứ đến như những nhân tố tâm lý nếu lại gồm cả Sắc, Tâm hỗn hợp, thì quan hệ nhân quả lại biến hóa một cách phi thường phức tạp và thời gian kéo dài cũng khá lâu. Có nhiều loại Nhân khi gieo xuống rồi không phải chỉ trong một đời mà thành quả, mà có khi đến khi hàng mấy kiếp sau gặp đủ duyên mới nẩy nở. Trong trường hợp ấy, nếu không phải người chứng được “Túc mệnh thông” (trí tuệ biết hết các việc kiếp trước), thì dĩ nhiên không thể tìm ra manh mối, do đó mới cho là sự kiện ấy là ngẫu nhiên phát sinh. Từ sự biến hóa vật chất mà chúng ta đã biết được quan hệ Nhân quả, thì một sự vật bao gồm cả sắc tâm hỗn hợp, tất cũng phải theo một quy tắc nhân quả nhất định, điều đó quyết không phải là một lệ ngoại vô lý, và cũng đừng tưởng vì ta không tìm được căn nguyên của nó trong thời gian ngắn mà cho đó là ngẫu nhiên, nếu thế thì ta sẽ sa vào những luận đoán sai lầm kể trên.
2.- BẤT BÌNH ĐẲNG NHÂN LUẬN
Bất bình đẳng nhân luận là cái thuyết cho rằng một Nhân có thể sinh ra vạn vật, và cái Nhân đó không do một Nhân khác sinh ra, mà cũng không giống với vạn vật, cho nên gọi là bất bình đẳng.
Bất bình đẳng nhân luận, chủ trương một Nhân sinh mà cũng chủ trương bao nhiêu Nhân không tương thông mà sinh. Như hiện nay tôn giáo cho rằng có một đấng vạn năng tạo nên mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, núi rừng, sông ngòi và người vật, đấng Vạn năng đó là một trong những cái Nhân bất bình đẳng. Nếu hết thảy sự vật đều do một cái Nhân đó sinh ra mà không cần sự trợ lực của các Nhân khác, thì hết thảy sự vật trên thế gian này, lẽ ra phải đồng thời phát sinh, chứ không có thứ tự, trước sau, nhưng cứ theo sự nhận xét của chúng ta thì sự vật phát sinh có thứ lớp: Sau trước, những vật mà khoa học mới phát minh, càng ngày càng tối tân, đều là những vật xưa kia chưa có.
Nếu nói rằng đấng Vạn năng ấy tùy theo ý muốn của mình mỗi lúc tạo ra mỗi vật nên có trước sau, thì xin hỏi: Khi sinh ra cai ý muốn là phải theo điều kiện hay không theo điều kiện? Nếu có điều kiện thì đấng Vạn năng ấy đã mất tự chủ, không phải là Vạn năng nữa; mà nếu không có điều kiện thì sự vật phải đồng thời phát sinh. Lại nữa, nếu đấng Vạn năng ấy đã tự tạo nên ngài được thì vạn vật cũng có thể tự tạo lấy, hà tất phải nhờ ngài? Lại nữa, đấng Vạn năng tạo ra vạn vật mục đích để làm gì? Nếu nói rằng để thỏa mãn dục lạc của mình, thì sao lại còn tạo ra ma quỷ, địa ngục và muôn vàn thứ xấu xa khả ố nữa? Nếu nói rằng đấng Vạn năng muốn thế thì đấng Vạn năng ấy là một kẻ tội ác. Lại nữa, nếu đấng Vạn năng quả có sức Vạn năng thì sao không tạo ra những con người tốt đẹp, ngay thẳng, phúc đức và trí tuệ, lại đi tạo ra cái thế giới đầy tội ác này, để rồi phải xuống cứu họ và chết thay để chuộc tội cho họ? Nếu không tạo được như thế thì không phải là Vạn năng, nếu có thể tạo được mà lại cố ý tạo ác, thì cái tội đó không thể tha thứ. Cho nên trên căn bản lý trí, thuyết Nhất nhân luận không thể nào đứng vững.
Khi khoa học mới bắt đầu xương mình, người ta từng ngộ nhận rằng nguyên tử là một đơn vị nhỏ nhất không còn thể phân chia được nữa, nguyên chất của nó chia thành 92 loại, làm nhân cho hết thảy vật chất. Đó là thuyết Đa nhân luận trong học thuyết Bất bình đẳng nhân luận vậy. Nhưng không bao lâu thì học thuyết đó bị đánh đổ khi người ta đã tìm ra điện tử. Rồi họ cho rằng điện tử là đơn vị nhỏ nhất và nhận nó là cái thể chân thường bất biến, do đó mới lại từ Đa nhân luận trở lại Nhất nhân luận. Từ sau khi nguyên tử năng được phát minh, người ta mới biết rằng thuyết đó là lầm, nguyên lai trước kia cái mà người ta nhận là vật chất thường còn bất diệt, có thể biến thành phi vật chất, và trước kia người ta cho rằng năng lực và vật chất là hai cái khác nhau, nhưng đến nay mới biết nguyên lai nó chỉ là một. Từ đó các nhà khoa học đã tự thủ tiêu thuyết Bất bình đẳng nhân luận mà quay về thuyết Bình đẳng nhânquả luật của Phật giáo.
3.- ĐỊNH MỆNH LUẬN
Người lập ra Định mệnh luận chủ trương rằng hết thảy mọi sự việc đều đã định trước, hoặc do trời định thì sức con người không thể cưỡng lại được, kết quả đã khiến cho người ta xu hướng đến chỗ tiêu cực mà không dám đảm mhiệm trách vụ của mình. Phái theo thuyết Lạc Thiên ở Trung quốc thuộc về loại đó. Cái mệnh lý thông hành ở Trung quốc nếu thuộc về định lý tức đã thành định mệnh luận, nếu không phải là định lý thì căn cứ vào đâu mà suy đoán? Nên biết răng tuy gieo nhân ở kiếp trước, nhưng nhân duyên hòa hợp mà thành kết quả lại ở kiếp này, kiếp trước dẫu gieo Nhân xấu, nhưng kiếp này chăm chỉ cố gắng làm việc thiện, thì Nhân xấu ở kiếp trước không còn đủ duyên để sinh ra Quả xấu ở kiếp này; nếu chỉ sinh lòng ăn năn thôi, thì cũng đã tạo được cái Duyên tăng thượng làm trở ngại cho Nhân xấu khỏi kết thành Quả xấu.
Ông Viên Liễu Phàm đời nhà Minh đã từng thực nghiệm thuyết định mệnh, và lúc đầu cũng biết trước được mọi việc một cách xác đáng như các nhà Mệnh lý vậy. Nhưng từ khi được Vân cốc thiền sư giảng cho nghe thuyết Duyên sinh thì Ông lập chí cải biến số mệnh trước, chăm làm việc thiện và kết quả tốt đẹp hơn dự định. Cho nên cái gọi là Định mệnh luận, thật ra trong định vẫn có cái bất định, nếu thông suốt được Duyên sinh luận của Phật giáo thì ta không còn mê theo Mệnh lý đến nổi phải sa vào đường tiêu cực. Hơn nữa, họa hay phúc là do mình tự tạo lấy, cái đạo lánh dữ làm lành không phải tìm ở bên ngoài. Nhưng nếu hiểu được rằng tội, phúc vốn không có tự tính, tuy có chăm tu phước đức mà không sinh tư tưởng chấp trước vào phúc đức thì đó lại là cao hơn một bậc nữa.
4.- CƠ GIỚI LUẬN
Các nhà triết học Cơ giới Duy vật luận cho rằng sự biến hóa của hết thảy sự vật là do tính di truyền và ảnh hưởng hoàn cảnh qua các thời đại. Họ nhận rằng Tâm chỉ là hiện tượng do vật chất biểu hiện, cho nên tất cả nhân tố biến hóa chỉ là vật chất và thời gian mà thôi. Theo lý luận đó, nếu một người đồng thời với Lincoln, từ nhỏ sinh trưởng trong một gia đình như Lincoln, hoàn cảnh sinh hoạt và hưởng thụ vật chất cũng như Lincoln thì tương lai cũng sẽ thành vị Tổng thống của Hoa Kỳ và cũng tạo được những sự nghiệp vĩ đại như Lincoln. Ý nghĩa của thuyết đó cũng như một chiếc xe hơi khi đã được lắp tất cả các bộ máy móc như nhau là thành nhãn hiệu cũng như nhau và cũng có công dụng như nhau, cho nên gọi là Cơ giới luận. Lý thuyết đó coi sự biến hóa của vạn vật trong vũ trụ cũng như một bộ máy phải tuân theo những quy tắc khoa học.
Phật giáo nhận rằng vật chất quả là nhân tố nhưng không quan trọng bằng nhân tố Tâm. Vật chất cố nhiên đưa đến tác dụng của tâm, nhưng tâm cũng có thể dẫn khởi sự biến hóa của vật chất. Lý luận của Cơ giới luận vẫn còn dựa vào định luật của vật lý học cũ cho rằng vật chất là thường còn, nếu các nhà triết học ấy đọc qua vật lý học hiện đại họ sẽ phải kinh ngạc và lập tức đem những tài liệu trước tác của mình bỏ vào hỏa lò, rồi quay về với kinh điển nhà Phật. Vì các nhà khoa học hiện đại sẽ cho họ biết rằng vật chất có thể biến thành năng lực phi vật chất và năng lực lại lấy thời gian và không gian làm nhân tố trọng yếu, mà thời gian thì không thể thoát ly nhân tố Tâm. Như thế đủ biết không những năng lực và vật chất là một, mà vật chất với Tâm cũng là một. Thế là nền tảng của Cơ giới luận đã sụp đổ, ta không cần phải nhọc công bác luận nữa.
Bốn loại tà luận kể trên trong kinh Phật gọi là “Biến kế sở chấp” (chấp theo cái tâm thức vọng động biến hiện), cũng như lông rùa, sừng thỏ, quyết không thể có. Nếu ta tin vào những tà thuyết này, ta sẽ phải gặp những tệ hại:
1) Khiến người ta không quan tâm đến trách nhiệm và sự nghiệp của mình, đem sự thất bại đổ lỗi cho vận mệnh, thiên thần và hoàn cảnh xã hội; nếu nhất đán thành công thì lại nhận lấy công đó là của mình, vì thành công đó do cái Nhất nhân kia sinh ra, người khác không thể tranh công được.
2) Khiến người ta chỉ biết tích cực tăng cường tham dục, mà không chịu tích cực phục vụ xã hội.
3) Khiến người ta thiếu tình thương đối với đồng loại, tăng thêm tính tự kiêu, tự đại và lòng tranh giành, hiếu chiến.Muốn tránh những tệ hại đó, chỉ có cách là tin Vạn hữu nhân quả luật của Phật giáo.
B.- VẠN HỮU NHÂN QUẢ LUẬT
Luật nhân quả của Phật giáo thích ứng với tất cả sự biến hóa của hết thảy vật chất, của tâm và vật hỗn hợp. Từ chúng sinh đến thành Phật, từ thế gian đến xuất thế gian đều phải chịu sự chi phối của định luật ấy, bởi thế tác giả gọi là Vạn hữu nhân quả luật. Nhân quả là nói tắt, nếu nói đủ phải là nhân duyên, quả báo. Nhân là cái nhân làm chủ, duyên là cái nhân giúp thêm vào, khi nhân duyên hòa hợp mà sản sinh ra vật gì thì gọi là quả, quả đó đối với người gieo nhân, gọi là báo. Trong kinh Phật có một bài kệ nêu rõ định luật nhân duyên quả báo đó như sau: “ Giả sử bách thiên kiếp, sở tạo nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thụ”, (giả sử trăm nghìn kiếp, chỗ tạo nghiệp không mất, khi nhân duyên hội ngộ, tự phải chịu quả báo)
Bài kệ trên nêu rõ ba điểm:
1.- Cái nghiệp ta tạo nên là Nhân, nhân ấy tuy có trải qua thời gian bao lâu chăng nữa cũng không thể tiêu tan được. Ý nghĩa ấy cũng như ý nghĩa trong định luật động lực cuả Newton: Vật thể tĩnh thì tĩnh mãi, mà động thì động mãi, nếu không có sức bên ngoài xung kích thì tự nó không biến đổi.
2.- Nhân đó bất luận lâu hay chóng, hễ gặp Duyên thì phát sinh Quả, ví như tĩnh vật gặp sức bên ngoài thì động, hoặc động vật gặp sức bên ngoài thì chuyển hướng hay đình chỉ, hay tăng thêm sức chuyển động.
3.- Tự mình gieo Nhân, tự mình phải chịu Quả, họa hay phúc là do mình thụ chuốc lấy, chứ không phải do một đấng Thiên thần thưởng phạt, cũng không phải mình gieo Nhân mà người khác chịu Quả, hoặc người khác gieo Nhân mà mình phải chịu Quả, như các nhà tôn giáo khác chủ trương.
Nhân quả luật của khoa học cũng nằm trong vạn hữu nhân quả luật, vì khoa học chẳng qua chỉ nói đến quy tắc nhân quả của vật với vật, chứ không chịu nghiên cứu vấn đề nhân sự và nhân tố của Tâm, cho nên quan hệ nhân quả của khoa học rất đơn giản. Ví dụ: Đặt một khúc đồng tuyến (sợi dây đồng ) cho di động trong từ trường để nó cắt đứt từ lực tuyến, thì trong đồng tuyến sẽ sinh ra điên áp (sức điện động). Nói theo sự biến hóa về vật chất ấy thì đồng tuyến là Nhân, động lực và từ lực tuyến là Duyên giúp thêm vào (trợ duyên), còn điện áp là Quả, vì đồng tuyến là vật vô tình, nên không tiện gọi là Báo. Nếu không có đồng tuyến thì không thể có được điện áp, cho nên đồng tuyến là chủ nhân; nhưng có đồng tuyến mà không nhờ động lực xung kích nó, và không có từ lực tuyến để nó cắt đứt, thì điện áp không thể phát sinh, cho nên động lực và từ trường là Duyên. Có Nhân, có Duyên thì nhất định phải sinh Quả, không sai một mảy, nên gọi là nhân quả luật.
Nhờ có định luật nhất định ấy, nên ta mới có thể dự trù kế hoạch để chế tạo ra máy phát điện, không thì phải đến khoanh tay mà phó mặc vận mệnh hoặc cầu cứu thiên thần. Cũng nhờ có định luật nhân quả ấy mà bao nhiêu dụng cụ nông nghiệp đã được chế tạo. Nhà nông trồng lúa thì được thóc, trồng đậu thì được đậu, xưởng dệt dùng bông làm nguyên liệu rồi nhờ máy móc và nhân công mà dệt thành vải; xưởng bánh thì dùng bột làm nguyên liệu, rồi nhờ máy móc và nhân công làm thành bánh, tất cả chúng ta đều thấy lịch trình nhân quả diễn tiến một cách phân minh, rõ ràng. Quan hệ giữa vật với vật đã như thế, thì quan hệ giữa tâm với vật và tâm với tâm tất cũng như thế. Vả lại tâm với vật vốn là nhất thể, suy rộng ra thì lý đó không sai.
Nhưng Phật giáo giải thích nhân quả quan hệ của sắc tâm còn phức tạp hơn những thí dụ kể trên rất nhiều, cho nên đối với ba thứ Nhân, Duyên, Quả, đã được Phật giáo phân tích rất tỷ mỉ. Ở đây, tôi chỉ xin nói sơ lược, nếu muốn hiểu cho tường tận, xin độc giả hãy nghiên cứu Kinh, Luận của Pháp tướng tôn. Trong kinh Phật dạy “Nhân” có hai thuyết: “Sáu nhân” và “Mười nhân”, trong Câu xá luậnnói sáu nhân, Du già luận nói mười nhân đều là mở rộng phạm vi của Nhân mà bao gồm cái “Duyên” ở trong. Còn về “Duyên” thì trong kinh Trường A Hàmchia ra bốn loại: 1) Nhân duyên; 2) Đẳng vô gián duyên; 3) Sở duyên duyên; 4) Tăng thượng duyên; các loại Duyên trên cả Tiểu thừa và Đại thừa đều công nhận. Kinh điển Bali còn chia rộng ra thành hai mươi bốn duyên. Hai mươi bốn duyên này giải thích rất tường tận sự quan hệ giữa Sắc và Tâm, giữa Tâm với Tâm, giữa Tâm với Tâm Sắc, giữa Tâm với Thân, giữa Thân với Tâm, giữa Thể tâm sắc hỗn hợp với Thể tâm sắc hỗn hợp.
Nhưng ở đây tôi chỉ xin nói về bốn loại Duyên phổ thông nhất đã kể ở trên.
1.- Nhân duyêntức là cái chủ nhân, đứng về phương diện vật chất mà nói thì bông là chủ nhân của vải, bột mì là chủ nhân của bánh, đồng tuyến là chủ nhân của điện. Đứng về phương diện “tâm” hay “tâm sắc hỗn hợp” mà nói thì phàm những hành vi do Thân, Miệng, Ý tạo nên mà trong kinh Phật gọi là “nghiệp” đều có thể “Nhân”.
2.- Đẳng vô gián duyên là nói cái tâm vương, tâm sở của tâm thức sinh diệt từng giây từng phút, cứ một ý nghĩ trước vừa diệt đi thì lại mở đường cho một ý nghĩ sau tiếp đến, cứ như thế nối tiếp không ngừng, cho nên cái tác dụng được gọi là Đẳng vô gián duyên. Duyên này chỉ có trong phạm vi “tâm pháp” chứ không có trong sự biến hóa của vật chất.
3.- Sở duyên duyên là chỉ cái Tâm hay phân biệt và cái Vật bị phân biệt đối nhau, cái trước lấy cái sau làm Sở duyên; cái vật bị phân biệt làm Trợ duyên cho cái tâm hay phân biệt, cho nên gọi là Sở duyên duyên.
4.- Tăng thượng duyênlà chỉ hết thảy tâm pháp hay sắc pháp khởi lên tác dụng thuận, nghịch đối với chủ nhân, rồi chủ nhân nhờ ảnh hưởng ấy mà trưởng thành, dều gọi là Tăng thượng duyên.
Trong Nhân quả luật thuần vật chất thì chỉ cần có “nhân duyên” và “tăng thượng duyên” là có thể phát sinh ra Quả, nhưng trong Nhân quả luật thuộc tâm pháp và sắc tâm hỗn hợp, thì cần phải đủ bốn Duyên mới phát sinh Quả được. Những Quả do những Nhân duyên ấy hòa hợp phát sinh được chia thành năm loại:
a) Di thục quả.
b) Đẳng lưu quả.
c) Ly hệ quả.
d) Sĩ dụng quả.
e) Tắng thượng quả.
đều có nói rõ trong Câu xá luậnvà Thành duy thức luận.
Theo kinh Phật thì đất đai, sông núi, mặt trăng, mặt trời, các vì tinh tú, cây cỏ, chim muông cho đến hết thảy hoàn cảnh hiện hữu, đều là kết quả của nghiệp lực chung của toàn thể nhân loại trên thế giới gây nên, chứ không phải một đấng Vạn năng nào sáng tạo cả. Những nghiệp nhân ấy cũng có cái gì ở kiếp trước, có cái ở kiếp này, thí dụ: Thương cảng ở Thượng Hải lúc đầu đời nhà Thanh chưa có, đến khi các cửa thông thương, thì người Trung Hoa mới hợp lực cùng các nước trên thế giới mà kiến thiết nên. Những sự kiến thiết về vật chất ấy không phải chỉ có nhân dân Thượng Hải chung sức hoàn thành mà cả nhân dân toàn thế giới cũng góp phần một cách gián tiếp. Những loại nhân quả đó đều thuộc hiện tại, duy cái nhân tạo thành mặt trăng, mặt trời thì thuộc về quá khứ.
Luật Nhân quả của Phật giáo không bị thời gian hạn chế, có khi đời trước gieo nhân, đến đời nay gặp đủ duyên thì kết thành quả; có khi kiếp trước gieo nhân, đến kiếp sau này mới thành quả; có khi đời này trồng nhân, có thể đời này thành quả ngay; nhưng cũng có khi đời này gieo nhân, phải đến mấy kiếp sau mới kết thành quả. Tất cả đều căn cứ vào cái “Duyên” đầy đủ hay không đầy đủ mà có trước, có sau, có mau, có chậm vậy. Người đời thường không hiểu cái lý nhân quả sâu xa ấy, nên khi thấy có người kiếp này làm việc thiện mà phải chịu ác báo, hoặc có người đời này làm việc ác mà lại được hưởng phước báo, liền cho là sai lầm mà không tin luật Nhân quả. Nhưng họ không biết rằng người kiếp này làm việc thiện mà lại chịu ác báo, là vì kiếp trước họ đã gieo nhân ác, đến nay đã đủ duyên kết thành quả, nghĩa là quả chín đã đến ngáy rụng, cho nên họ phải chịu ác báo, Còn kiếp này họ làm việc thiện, tức là đang gieo nhân thiện , nhưng cái nhân thiện đó còn quá yếu ớt, chưa đủ sức lấn áp cái quả ác kia và cũng chưa đủ duyên để kết thành quả thiện ngay, nhưng đến kiếp sau, hay mấy kiếp sau nữa chắc chắn sẽ thành thiện quả. Còn người kiếp này làm ác mà lại được phúc báo thì cũng thế, nghĩa là phúc báo ở kiếp này là kết quả của nhân thiện họ đã gieo ở kiếp trước; còn kiếp này họ làm ác, họ sẽ phải chịu ác báo ở kiếp sau, hay mấy kiếp sau nữa.
Luật nhân quả đó cho rằng tự mình làm, tự mình chịu, dẫu đến cha con thân thích cũng không ai chịu thay cho ai được. Người đời thường cho rằng vì Tổ tiên tích đức nên con cháu được hưởng phúc báo, thật ra thì không phải thế. Nên biết rằng cái phúc báo mà con cháu thụ hưởng đó chính là con cháu tự tạo lấy chứ không liên quan gì đến tổ đức cả; tổ tiên tích đức chỉ có thể tạo được nghiệp đồng cảm khiến cho người có phúc sinh vào làm quyến thuộc mà thôi. Lý do rất rõ ràng là vậy. Lại nữa, Nhân quả có tính chất bình đẳng, cái nhân năng sinh tức là cái quả sở sinh, quả sở sinh tức là nhân năng sinh, nhân quả không cố định, chỉ do đối đãi mà có. Nếu lấy nhân quả vật chất làm thí dụ thì, sợi vải là quả của bông, cũng lại là nhân của vải; vải là quả của sợi vải, lại trở thành nhân của quần áo. Nếu thì dụ về nhân sự thì, cha là con của ông, lại cũng là cha của con, rồi lại trở thành ông, cứ như thế suy ra thì vô cùng. Cho nên biết cái nhân bất bình đẳng ấy không những đã không phù hợp với tỷ lượng mà còn trái cả với hiện lượng nữa.
Căn cứ luật nhân quả mà suy ra thì nhân sinh phải trải qua ba giai đoạn: Quá khứ, Hiện tại, và Tương lai. Vì nhân quả nối tiếp không dứt, trong luật nhân quả không có cái nhân đầu tiên mà cũng không có cái quả cuối cùng; trước cái nhân này có cái nhân khác nữa, cứ thế mà suy mãi lên thì thấy nó vô thủy; sau quả này lại có quả khác, sau quả khác lại có cái quả khác nữa, cứ thế suy mãi xuống thì thấy nó vô chung. Căn cứ vào đó nên Phật nói vòng vo quanh sáu ngã, vì ta chưa chứng được Thần thông nên không thấy rõ, nhưng xét theo lý ấy, thì ta vẫn có thể tin lời Đức Phật nói là đúng.
Nếu có người hỏi: Quan hệ nhân quả giữa vật với vật phân minh rõ ràng, ai ai cũng biết, quan hệ nhân quả giữa vật với vật phân minh rõ ràng, ai ai cũng biết, quan hệ nhân quả giữa vật với tâm cũng còn dễ hiểu, như hết hảy vật chất đều có thể làm cho người ta cảm thấy khổ, vui, lo, mừng; chứ như đến tác dụng của Tâm thì không thế, vậy làm thế nào khiến cho vật chất biến hóa được? Xin trả lời: Đúng thế, lấy cái tâm làm nhân để tạo ra vật quả, gọi là Dị thục quả, cái quả đó phải nhiều kiếp mới chín chứ không phải chỉ một kiếp mà thành, nên không thể thấy được một cách dễ dàng. Nhưng nếu lấy tâm làm nhân để khiến vật chất sinh ra biến hóa, thì có rất nhiều; thí dụ như khi ta nghe thấy người nào nói đến mơ chua thì tự nhiên trong miệng chảy nước miếng. Lại như khi trèo lên một mỏm đá cheo leo dốc thẳng , trong lòng thấy sợ hãi thì thấy bàn chân gây gây. Lại nữa, khi nằm mộng thấy cùng đàn bà giao hợp thì xuất tinh, vậy người đàn bà trong mộng ấy có thật không? Ngày xưa Lý Quảng vào núi gặp hổ, liền giương cung bắn, khi đến gần mới biết là đá chứ không phải là hổ, nhưng mũi tên đã xuyên qua đá, khi đã biết là đá rồi thì bắn mấy tên cũng không vào. Ngài Cưu-ma-la-thập khi còn nhỏ theo mẹ lên chùa, thấy chiếc bát của chư Tăng, liền nghịch cầm chụp lên đầu, khi để xuống nhìn kỹ mới biết là bát sắt, thì lúc đó không thể nào nhắc lên nổi nữa. Căn cứ vào những thí dụ kể trên thì ta thấy rằng tác dụng của cái Tâm cũng có thể biến đổi được vật chất. Là vì trọng lượng và mức độ cứng, mềm của vật chất vốn không thực có,chỉ cần tăng thượng duyên của thân căn là có thể khiến cho thân thức cảm giác được trọng lượng và mức độ cứng, mềm. Khi tăng thượng duyên phát ra biến hóa thì trọng lượng và mức độ cứng, mềm đó cũng biến đổi theo, cho nên đá mới biến thành mềm như thịt, và sắt mới trở nên nhẹ như ngói. Những trường hợp đó tuy hiếm có, nhưng trong Duy thức học cũng đã phân tích một cách hết sức rõ ràng và hợp lý.
Cho nên biết rằng luật nhân quả bao hàm tất cả sự biến hóa của sắc tâm, tâm sắc ở trong, nghĩa là không một sự biến hóa nào của các pháp tránh khỏi sự chi phối của luật đó được. Bởi thế gọi là Vạn hữu nhân quả luật cũng không phải quá đáng vậy.
C.- VỌNG CHẤP SINH, DIỆT, ĐOẠN, THƯỜNG
Người đời vì không thấu suốt lý: Hết thảy sự vật đều do nhân duyên sinh, nên mới cố chấp cho rằng vạn vật là thật có, là thường còn, do đó đối với thân mệnh, tài sản, người ta yêu quý vô cùng, nếu một ngày kia thấy người chết, hay tài sản bị tiêu hủy, thì lại cho là đoạn diệt, không thể sống lại, khiên người ta đau buồn, chán nản. Nếu biết rằng hết thảy sự vật do nhân duyên sinh, thì hiểu ngay là sự vật vốn không có tự tính, sinh đó chẳng qua là giả hiện, mà diệt đi cũng chỉ là huyễn diệt. Vì sự vật theo nhân duyên mà sinh, diệt, nên nói rằng nó không phải thường còn, cũng không phải thực có. Vì sự sinh, diêt, đều là giả dối, nên diệt không phải là dứt hẳn, nếu là dứt hẳn, thì sau khi diệt sao lại có thể sinh ra nữa? Nếu là thực có thì tất không thể diệt được.
Các nhà vật lý học xưa cũng đã từng ngộ nhận rằng vật chất là thực có, cho nên nói vật chất thường còn, bất diệt. Nếu vật chất thực có thì quyết không thể diệt được; nếu vật chất thực có diệt, thì diệt rồi không thể lại sinh; thế thì núi, sông, người vật, tất phải diệt hết, mà đã diệt rồi, vĩnh viễn không còn sinh nữa.
Các nhà khoa học hiện đại mới chứng minh rằng vật chất không phải thường còn, có thể biến diệt, nhưng cái diệt đó không phải thật diệt, mà chỉ là giả diệt. Hễ vật chất diệt, năng lực sinh, mà năng lực diệt thì vật chất sinh, hai cái đó thay nhau biến hóa, nên sự sinh, diệt chỉ là cái giả tướng biến hóa, chứ bản thể của nó thì không hề sinh diệt, không hề biến động, vì thế Phật nói: Hết thảy Pháp không sinh, không diệt. Thế mà người ta không hiểu thấu cái chân lý ấy, lại ngộ nhận hết thảy giả tướng không sinh diệt, chấp là thực có, rồi sinh ra thành kiến “chấp thường”. Khi nghe Phật nói giả tướng có sinh diệt, thì lại ngộ nhận bản thể có sinh diệt, rồi sinh ra thành kiến “chấp đoạn”. Chấp thường và chấp đoạn đều thuộc về “tà kiến”, cái tệ hại cuả nó không biết thế nào mà kể. Người đời thường nói: Kiếp người là “không”, rồi khuyên mọi người hễ được ăn thì cứ ăn, có mặc thì cứ mặc, việc gì phải ép xác cho khổ thân? Thấy người ta nói không cũng nói không, và tự cho mình là người đã đạt lý. Dưới tầm mắt của Phật giáo thì những người nói thế không đạt được điểm nào cả, hòan toàn là ngu si, không hiểu câu nói đó, một nửa thì e chấp thường, một nửa thì chấp đoạn. Họ nói “không” tức là cái “không” đoạn diệt, rỗng không, chứ không phải cái “chân không diệu hữu” như trong Phậ giáo nói. Vì họ chưa quên được cái thị hiếu “ăn”, họ nhận “sự ăn” là thật, còn chính cái họ họ là “không”, họ cho rằng đoạn diệt là sẽ đoạn diệt hẳn, vậy chưa đoạn diêt thì hãy mau mau ăn uống cho sướng miệng, như thế có phải ngoài cái chấp đoạn ra còn chấp thường đó không?
Cũng do cái vọng chấp đoạn, thường ấy, mà ta một mặt gia công hưởng lạc, tham đắm ngũ dục, một mặt dứt lòng từ bi, không chịu tu thiện. Thái độ đó hiện nay vẫn còn là cái nhân sinh quan của một số người an phận lợi kỷ. Vì họ đã chấp sâu vào tà kiến đoạn, thường, nên cho rằng nhân quả báo ứng chẳng qua chỉ là chính sách ngu dân do Thần đạo đặt ra, mà họ lại không phải là hạng dân ngu, họ chỉ sợ không vơ được cái lợi của thiên hạ về mình, không giật được cái quyền của thiên hạ về tay không thương tiếc gì đến tính mệnh của chúng sinh; những người như thế ngày ngày tạo nghiệp địa ngục, khi chết đi, làm sao tránh khỏi sa đọa địa ngục chịu mọi tội khổ.
Để phá trừ vọng chấp, ta hãy xét qua lý Sinh, Diệt, Đoạn, Thườnglập thành theo đồ biểu dưới đây:
|