Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Ứng Dụng

13/01/201115:34(Xem: 2188)
II. Ứng Dụng

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO

VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Bài II
Làng Đậu

II. Ứng Dụng:

Vì người viết bài hoạt động trong lãnh vực khoa học máy tính cho nên các ứng dụng học được từ các lời giảng Phật giáo vào nghiên cứu cũng mang hơi hớm đó. Nếu người đọc tìm thấy sự khó hiểu ở đây, xin chân thành tạ lỗi vì không có các ví dụ nghiên cứu ứng dụng phổ quát hơn.

II.1. "Văn hóa xếp hàng" trong mạng máy tính -- hay -- Tự chuyển hóa ứng xử của cá nhân mình hơn là cố tìm cách biến cải ứng xử của toàn bộ môi trường:

Tìm ở đâu được mảnh da lớn có thể bao phủ toàn quả địa cầu? Ngay nơi chiếc dép da này, toàn mặt đất sẽ được bao phủ"3. Triết ý của điều này thật ra đã được dạy từ đức Phật. Đại khái là cá nhân chúng ta không đủ sức để thay đổi cả thế giới môi trường nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi tự chính mình để tạo ra được sự hài hòa phù hợp cần thiết.

Trong môi trường mạng (network) việc các mạng "giao thông" gặp tắt ách rất thường thấy trong quá khứ và cả trong hiện tại một khi thông tin cùng một lúc bị truy cập hay cùng lúc cần đến.

Trường hợp cụ thể ở đây là vấn đề nảy sinh khi máy chủ (host/server) dùng giao thức DHCP hoạt động trên nguyên tắc tự động gán các địa chỉ IP cho các thân chủ (client). Nó đòi hỏi phải có một thời gian ngắn hạn để qua giao diện (interface) trao đổi các thông số cần thiết cũng như biết được máy thân chủ có được phép ban cấp IP (và bản thân máy chủ có sẵn nguồn IP chưa dùng đến hay không) để máy chủ có thể cấp phát số IP cho máy thân chủ cụ thể đang chờ kết nối.

Thông thường thì trên giao diện mạng, việc nối mạng như thế xảy ra ngẫu nhiên và ít khi gặp trở ngại. Tuy nhiên, trong môi trường hoạt động đặc biệt chẳng hạn như trong một mạng cô lập, một máy chủ dùng giao thức DHCP (điều khiển vận hành chung) được nối trực tiếp và tự động với hàng ngàn máy thân chủ giống hệt nhau (thông qua các switch). Ngay sau khi có sự cố (bị cúp điện) và nguồn điện đã được trở lại bình thường thì người quản lý hệ thống tự động này quyết định mở cầu giao cho máy chủ trước và tiếp đến mở cầu giao đồng loạt cho tất cả các máy thân chủ .... Sau đó, người quản lý có thể dể dàng thấy "hiện tượng" sau: có khá nhiều máy (hơn 1/3 trong tổng số) không thể nhận về được địa chỉ IP cho mình mặc dù máy chủ có khả năng cung cấp 100% số IP mỗi số cho một thân chủ một cách tự động. Số lượng máy thân chủ không có được IP "đành" phải được cho tái khởi động (reboot) bằng tay và kiểm lại địa chỉ IP. Việc làm như thế rất tốn thì giờ và buộc phải thân hành đến từng máy địa phương (không thể điều khiển từ xa vì ... chưa có kết nối mạng lên máy thân chủ để mà điều khiển)

Sau khi phân tích thì vấn đề này có thể thấy nó gần tương tự như chuyện trên 1 đoạn đường của 1 thành phố, ở giờ "Cao điểm" tất cả các xe trong các căn hộ thuộc đoạn đường này đều "xuống đường" cùng lúc ... mỗi chiếc xe đều đòi phải có 1 khoảng đủ rộng để phóng ... đến nơi mình muốn. Việc xảy ra đụng chạm cọ quẹt và tăng thêm trở ngại là việc tránh không khỏi. Do đó, nạn kẹt xe (tắt đường) là tất yếu.

350px-Tacduong" Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non ..."
(Tú Xương)

300px-Xephang"Mặc kệ đâu nhốn nháo - Ở đây ta xếp hàng -
Người trước người sau - Chúng ta nối đua nhau
→ Mua thịt" (Chế Lan Viên)

Ở đây, tình huống "thấy được" là việc vận tốc cung ứng các địa chỉ IP (môi trường sẵn có) là có giới hạn. Người ta có thể nghĩ đến chuện tăng cường khả năng của máy chủ (thay đổi môi trường cung ứng điều kiện làm việc của mạng) bằng các tăng các đường nối mạng, tặng vận tốc của bộ điều hợp mạng của máy chủ và các thân chủ (NIC/network controller) lên mức tối đa ... Tuy nhiên, các giải pháp này vừa tốn kém nhưng vẩn không thể giải quyết được hoàn toàn vấn đề. Mấu chốt cơ bản là "ta không thể nào mua đủ da để bọc hết gai trên trái đất này"! Khó lòng tăng cường được lượng mưa trong năm để dùng cho tưới tiêu các vùng ít lưu lượng mưa... mà cách dể hơn vẩn là ... thay đổi các giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Như vậy, giải pháp chính là hướng đến số lớn các máy thân chủ (thuộc về cá nhân) để điều chỉnh cho phù hợp hơn là thay đổi toàn bộ điều kiện sằn có của mạng kết nối.

Giờ hãy thử nghĩ nếu tất cả các thân chủ đều không ai giành nhau xin địa chỉ IP trong cùng lúc (và thay vào là có một dạng "xếp hàng" ngẫu nhiên nào đó) thì có lẽ vấn đề sẽ dể hơn. Tuy nhiên, khi người quản lý bật cầu giao thì tất đều khởi động cùng lượt .... các máy thân chủ, vốn có cùng một kiểu cấu hình và dùng cùng một thuật toán khởi động, đều không thể có bất kì liên hệ nào với các thân chủ khác để tự biết thứ tự của mình mà "xếp hàng (việc các máy tính biết được được sự có mặt của các thân chủ khác trên mạng chỉ có thể xảy ra ... sau khi các thân chủ mỗi máy đã có một địa chỉ IP cho mình --> vòng lẩn quẩn). Tuy nhiên, các thân chủ vẩn có thể tự mình thay đổi thời gian "giành giật" bằng cách xin đăng ký số IP ở thời điểm nào khác hơn là vào lúc "cao điểm". Vì các thân chủ đều rất giống nhau về mặt vật lý trừ một đặc điểm nhỏ, đó là mỗi bộ điều hợp nối mạng của mỗi máy thân chủ có duy nhất một địa chỉ MAC phân biệt.

Như vậy, nếu dùng địa chỉ MAC này để làm nhân cho việc thay đổi từng cá nhân máy thân chủ: Đặt số MAC riêng biệt của mỗi máy này làm nhân cho một hàm số ngẫu nhiên để tạo một thời gian vài giây (X). Máy thân chủ khi khởi động sẽ tự động ra lệnh cho mình đợi (delay) một số X giây ngẫu nhiên này trước khi gửi gói dữ liệu (data package) đến máy chủ để xin đăng ký IP (con số X delay này được xác định tùy theo lượng thân chủ và khả năng thực tế của hệ thống mạng, có thể tăng đến vài phút cho delay time)

Lý do mà vấn đề được hoàn toàn giải quyết là vì theo phân bố ngẫu nhiên thì .... số lượng máy thân chủ trung bình yêu cầu nhận địa chỉ IP trên một đơn vị thời gian thay vì là hàng ngàn máy trong cùng lúc nay được "giản" ra trong một khoản thời gian đủ lớn. Các thân chủ do có thời gian "chờ đợi" tự động một cách đồng đều ngẫu nhiên nên chỉ có tối đa (theo luật ngẫu nhiên bình đẳng) một lượng nào đó yêu cầu các địa chỉ IP lên máy chủ qua mạng kết nối. Do đó máy chủ có đủ thì giờ đáp ứng cho số này đồng thời lưu lượng trung bình các gói dữ liệu có mặt trên mạng cũng giảm đi nhiều chục/trăm lần và do đó tránh được các va chạm (data collision) làm mất dữ liệu thông tin mạng.

II.2. "Trông Mặt mà Bắt Hình Dong" -- Các nguyên nhân có phụ thuộc vào hậu quả không?

Theo nguyên lý duyên khởi (pratītyasamutpāda)4mà đức Phật đã dạy, thì mọi vật hiện hữu đều phụ thuộc vào các nhân (nguyên nhân) và duyên (điều kiện) tạo ra. Ở đây tạm không bàn sâu vào tính sinh diệt liên tục của vạn vật trên đơn vị ngắn nhất của thời gian mà chỉ đào bới một khía cạnh nhỏ về đặc tính phụ thuộccủa lời dạy này. Chúng ta có thể hiểu đặc tính phụ thuộc theo 3 mức độ:

  • Mọi vật sinh ra đều là kết quả của sự tương tác bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện.
  • Các yếu tố cấu thành của một sự vật/hiện tượng và toàn thể sự vật/hiện tượng đó phụ thuộc vào nhau
  • Tất cả sự vật và hiện tượng chỉ hiện hữu như là kết quả sự kết hợp đồng thời của tất cả những yếu tố cấu thành. Khi phân tích sự vật trong nhận thức bằng cách chia chẻ chúng thành từng yếu tố cấu thành, thì bất cứ sự vật nào cũng đều hình thành với sự phụ thuộc hoàn toàn vào các yếu tố khác. Và cho đến cùng thì tất cả đều tùy thuộc vào cách định danh (tức là cách đưa ra khái niệm, cách hiểu, đặt tên, mô tả, ... vv về một sự vật)

Thật ra, nguyên lý này đã được vận dụng trong khoa học rất nhiều từ việc chẩn bệnh trong Y học người bác sĩ cần nhận thấy các triệu chứng cũng như kết quả các phép thử (máu, nước tiểu, ...) mà đoán ra căn bệnh có khi là chắc chắn có khi chỉ ... là đoán. Trong khoa học giảo nghiệm, truy tầm tội phạm cũng thế, người ta dựa trên những bằng chứng hiện có để suy luận các nguyên nhân hay các nguồn dẫn. ... Cũng thế, trong khoa học máy tính, người phát triển mã nguồn có thể dùng các phép suy luận logic (dựa trên cơ sở trạng thái (state machine) và các thuật toán để tìm ra các sai sót. Trong quang học, hay vật lý thiên văn người ta cũng có thế dựa trên các quan sát phổ sóng ánh sáng, để đoán ra vật thể được quan sát có chứa nguyên tố gì. Vận dụng nhân quả theo cách này thì không có gì mới mẻ.

Vậy nhưng ở đây, xin ghi rõ đến cách nhìn có khác hơn của Phật giáo về tính phụ thuộc: Ai cũng nhận ra rằng hậu quả luôn luôn phụ thuộc vào các nguyên nhân và các điều kiện. Thế nhưng đạo Phật lại còn đi xa hơn nữa, một cách khách quan, nếu tạm thời không truy cứu đến phạm trù thời gian trôi chảy trong mối quan hệ nhân quả này thì rõ ràng về mặt tương ứng: mỗi phổ các hậu quả riêng biệt chỉ có thể tương ứng với một phổ của các nguyên nhân và phổ của các duyên (điều kiện mội trường) đặc thù. Hậu quả khác đòi hỏi tổ hợp nhân duyên khác, và do đó, từ cách nhìn này thì Phật giáo cho rằng nguyên nhân cũng phụ thuộc vào hậu quả5. Dựa trên quan điểm đó, nếu người nghiên cứu nắm được một cách chính xác đầy đủ về trạng thái và ứng xử hiện có (bao hàm cả trong đó sự tương tác với môi trường tạo duyên) của một đối tượng thì hoàn toàn có thể suy ngược một cách chính xác đến các nguyên nhân khiến cho đối tượng nghiên cứu có trạng thái ứng xử hiện tại. Một ứng dụng nhỏ của việc tương tác nhân quả trên các phát triển phần mềm là có thể khích khởi (inject) lên ngỏ nhập của chương trình các tham số, với điều kiện vật lý đặc biệt và thu lại toàn bộ kết quả hay ứng sử của chương trình. Một khi biết rõ các liên hệ khả dĩ giữa điều kiện đưa thêm, nguyên nhân, và hậu quả đang có cùng với môi trường hiện tại thì có thể "thấu suốt được" các nguyên nhân vốn khó nắm bắt này một cách tường minh hơn.

Nguyenlyphuthuoc

Tuy nhiên, ở đây người áp dụng cũng nên biết rõ là Phật giáo phân biệt 3 hạng dữ kiện: Một là hạng dữ kiện có thể trực tiếp nhận thức và không cần thêm bất kì biện pháp nào. Hai là hạng dữ kiện có mặt nhưng đòi hỏi phải suy luận chặt chẽ hay phải có những "công cụ" gián tiếp để phát hiện. Ba là, hạng dữ kiện hoàn toàn ẩn kín; loại này không cho phép người nghiên cứu thấy, suy luận hay dùng công cụ để chỉ rõ được. Tuy nhiên, trong dòng duyên khởi (tức là dòng chuyển biến tương tác liên tục của các hiện tượng đang được nghiên cứu) thì các dữ kiện bất kể thuộc hạng nào cũng vẩn có các tương tác lẫn nhau. Do đó các sự kiện có khả năng nắm bắt được vẩn có thể còn chịu ảnh hưởng của các sự kiện không nắm bắt được (và ngươc lại -- đây cũng là các yếu tố tạo khó khăn trong nghiên cứu). -- Trong nghiên cứu nếu có thể, hãy tìm cách "thay đổi tình hình" bằng việc "kích thích" ngõ vào một cách chọn lọc để khiến chúng tạo duyên cho sự loại trừ hoàn toàn hay ít nhất giảm thiểu tối đa ở mức có thể của các dữ kiện hạng thứ ba trong kết quả -- qua đó người nghiên cứu có thể kiểm soát và thấu hiểu được tình hình, nguyên do, hay bản chất của đối tượng đang được nghiên cứu.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/08/2010(Xem: 3326)
Môi sinh tương đối là một khoa học mới liên hệ đến nhiều nguyên lý điều hành các mối liên hệ giữa các sinh thể và Môi sinh. Có nhiều định nghĩa về Môi sinh. - đây chỉ đơn cử một số. P. D. Sharma (F.N.I.E., Ban (Khoa) Thực vật học, Đại học Delhi) đã viết trong tập sách của ông nhan đề "Sinh thái học và Môi sinh" rằng: "Ngày nay Sinh thái học đã và đang đóng góp rất nhiều cho các chính sách về xã hội, kinh tế, chính trị và các chính sách tương tự của thế giới. Thật rất phổ biến khi kiếm tìm các tham khảo về sinh thái học trong các bài viết, tạp chí, tuần báo và nhật báo về xã hội, kinh tế học.
30/08/2010(Xem: 5240)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 52363)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51682)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9439)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12395)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15157)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12723)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13094)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9943)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567