Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I. Những Ý Kiến Chung

13/01/201115:32(Xem: 2241)
I. Những Ý Kiến Chung

 

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC
Bài II
Làng Đậu

I. Những Ý Kiến Chung:

Trở lại nội dung chính của bài viết. Trước tiên tác giả bài viết xin kính dâng lên Thánh đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 (His Holiness the Dalai Lama 14th.) hồ sơ xin phát minh với tựa đề "Middle Way Logical Volume"1(tạm dịch: Trung Đạo về Ổ Logic). Lý do là phát minh này đã vận dụng lại sáng kiến về chính sách Trung Đạo của đức Đạt-lai Lạt-ma để đề xướng vào trong khoa học máy tính. Ý tưởng sáng tạo trong phát minh này không thể có được nếu không có chính sách Trung Đạo của Ngài. (Thật tiếc cho chính phủ Trung Hoa đã không thấy được hay vì vô minh cố tình không thấy ưu điểm của đường lối Trung đạo)

Bài thứ hai này có đề cập về việc sử dụng các quan điểm hay ý kiến đã được giảng huấn từ các vị phật hay đại bồ-tát. Lý do là vi các bậc đại bồ-tát đã phải trải qua thời gian rất dài rèn luyện tâm thức tập trung mãnh liệt nên khả năng nhận thức của các ngài rất đúng đắn và thấu suốt.

Về lý mà nói, thì lời dạy của các bậc giác ngộ (nếu được thấu hiểu cặn kẽ) đều là lời nói thể hiện các mức độ khác nhau về hiểu biết chân lý. Cho dù các lời dạy đó hầu hết chỉ thể hiện trong bối cảnh rèn luyện tâm, thì vì các lý do đã nêu, chân lý bao hàm bên trong các lời dạy đó sẽ rất hữu hiệu nếu nó được thấu suốt và sử dụng đúng theo luật duyên khởi (-- nói một cách nôm na về luật này là các hiện tượng sinh ra đều do sự tác động của các điều kiện chung quanh và sự chuyển hóa liên tục của chính bản thân hiện tượng đó :-).

Cách nay hơn tháng, tác giả bài này có nhận được một email từ một người chưa hề quen biết giới thiệu về việc ứng dụng của nguyên lý Tứ Diệu Đế tức là bài giảng đầu tiên của đức Phật Thích-ca vào dịp chuyển Pháp luân lần thứ I2. Bài viết đã nêu lên một điểm lý thú trong việc quán chiếu theo cách nghĩ của nguyên lý Tứ Diệu Đế để giải quyết các vấn đề, các khó khăn. Theo thiển ý thì đó là một ví dụ điển hình trong khi cũng sẽ có rất nhiều cách vận dụng một nguyên lý Phật học khác không chỉ với Tứ Diệu Đế như Duyên khởi, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên ... Chỉ cần theo dõi quán chiếu và tu tập thật cẩn thận và tìm cách áp dụng chẳng hạn như nguyên lý giữ chánh kiến trong Bát chánh đạo cũng đã có thể mang lại rất nhiều lợi lạc cho người nghiên cứu khoa học.

Nhưng đi đến mức cụ thể hơn, ta có đến vô vàn các lời dạy (84 ngàn pháp môn) thì câu hỏi đặt ra là biết dựa vào đâu và dựa trên nguyên tắc chọn lọc nào để dùng cho phù hợp với điều kiện khó khăn trong nghiên cứu hiện có?

Câu trả lời ở đây thật đơn giản mà cũng... không đơn giản tí nào đó là hãy để tùy duyên! Tức là tùy hoàn cảnh, tùy hiểu biết mà có nên hay không nên có dùng hay không dùng được một giáo huấn nào đó. Cũng tương tự khi giải một bài toán thi, người thí sinh phải biết tự mình liên kết, liên hệ các sự kiện của đề thi với kiến thức sẵn có một cách linh hoạt và hợp lý, từ đó mới đi đến chỗ thấy được sự khế hợp của những gì mình đã hiểu rõ và những gì mình cần vượt qua để dựa trên tri kiến đã biết mà làm.

Để có thể hoàn thành một bài thi thì thí sinh cần phải có đủ kiến thức và kỹ năng để giải quyết. Cũng vậy cho việc ứng dụng Phật giáo. Ở đây xin nhắc đến quá trình tìm đến Phật giáo, đọc và phân tích để hiểu thật rõ các giáo pháp và ngay cả cần hiểu được giáo pháp đó ở mức độ nào dành cho đối tượng nào và nó khế hợp với bối cảnh nào thì càng tốt. Bước tiếp theo có thể khó hơn là việc người đọc tự mình thực hành hay cố gắng thực hành các lời dạy đó. Việc thực hiện lời dạy là một bước rất quan trọng vì giống như trong lúc thi người học trò không thể nào đợi đến khi bước chân vào phòng thi mới lò dò mở từng cuốn sách ra mò xem đề bài này thuộc loại gì, kiến thức của nó nằm ở đâu trong cuốn sách giáo khoa nào. Một khi các hiểu biết Phật giáo đó đã phần nào "nhập tâm" thì đó là lúc có cơ may hái quả do duyên mình gieo ra. Nói cho cùng, các kiến thức Phật giáo, nếu có được áp dụng thì chúng đều cũng chỉ là các trường hợp ứng dụng đặc biệt so với việc sử dụng chúng vào đời sống hay đạo đức thường nhật. Theo như cách miêu tả thông thường trong nhà Phật thì quá trình rèn luyện này mang tên là "Văn (đọc hiểu) -Tư (tư duy) - Tu (nổ lực thực chứng). Ở đây, xin nhắc thêm một điều quan trọng: hoàn toàn giống như học sinh đi học cần có người thầy giỏi thì việc học sẽ tiến bộ nhanh trong khi nếu gặp người thầy không phù hợp hay không có khả năng chuyển giao kiến thức có thể khiến người học trò trở nên mất căn bản và có cơ tạo ra các nguy hại cho tương lai của người học trò.

Trong một bài giảng của đức Đạt-lai Lạt-ma (HHDL) có giảng về 3 phẩm chất mà một người tu học Phật giáo cần có là: khách quan, phân tích logic mạnh mẽ và tinh tấn (hứng thú và kiên quyết) trong tu học. Tương tự như thế, để các nghiên cứu khoa học được thành công thì các điều kiện về khách quan về khả năng phân tích lập luận và về sự hứng thú trong công việc cũng là điều phải có.

Một điểm nữa cần nhớ là, người nghiên cứu lúc gặp khó khăn, cũng nên thử hướng tư duy của mình vào việc áp dụng các kiến thức Phật giáo vào các tình huống cụ thể ... có khi một tia sáng lóe ra từ các điều đã học trong Phật giáo.

Để minh họa, xin nêu tiếp phần thực tế áp dụng sau đây

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/10/2010(Xem: 4774)
Các lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này. Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh - andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh - oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
02/10/2010(Xem: 3605)
Khoa học và Phật giáo vốn có những phương thức khác biệt rất cơ bản trong việc nghiên cứu thực tại. Trên bình diện khoa học, tri thức và luận lý nắm giữ những vai trò then chốt. Khoa học thu lượm những hiểu biết về thế giới thực tại rồi cô đọng chúng lại thành những quy luật có thể kiểm chứng được. Bằng cách phân chia, xếp loại, phân tích, so sánh và đo lường, nhà khoa học diễn giải những quy luật này thông qua một loại ngôn ngữ khá trừu tượng của toán học. Dĩ nhiên trong khoa học, trực giác không phải là không có chỗ đứng, tuy nhiên, nó chỉ mang lại kết quả khi nào được hệ thống hóa trong một cấu trúc chặt chẽ của toán học mà hiệu độ được bảo đảm bằng quan sát và phân tích.
25/09/2010(Xem: 4374)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
22/09/2010(Xem: 6404)
Chưabao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lạiđược các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đềcập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter cácbáo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả nhữngkhám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởngtừ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều màtrước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là nhữngcảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
17/09/2010(Xem: 6645)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
10/09/2010(Xem: 50868)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 3183)
Mối tương quan tương duyên cộng tồn vô cùng mật thiết chẳng những giữa con người với con người, mà với các loài khác và với môi trường sinh thái là điều rất quan trọng. Nhận thức được như vậy, việc bảo vệ môi trường sinh thái trên trái đất đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng và bức xúc nhất của loài người hiện nay. Thật vậy, mối đe dọa đến hệ sinh thái đã được thế giới báo động đỏ, vì sự tác hại càng ngày càng gia tăng của các chất độc hại đến sức khỏe và mạng sống của con người, đến mọi sinh vật, cùng đất đai, không khí, sông biển, cây cối, cho đến tuổi thọ của trái đất cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Và chính con người là tác nhân gây ra tình trạng tệ hại này. Vì vậy, nhiều tổ chức thế giới đã và đang cùng nhau đề ra nhiều biện pháp để ngăn ngừa hoặc hạn chế sự ô nhiễm môi sinh, điển hình như Ngày Môi trường Thế giới, hoặc 10 Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
04/09/2010(Xem: 4735)
Hội nghị này về sinh thái học thật cực kỳ đáng giá. Chúng tôi nhận thức tính cấp bách trên vấn đề bảo tồn sự cân bằng của môi trường, và tin tưởng rằng nếu chúng ta xao lãng, toàn thể thế giới sẽ khổ đau. Do bởi sự giàu có vật chất và kết quả của những vấn đề môi trường được thấy ở Phương Tây, những ai đấy đã nói rằng chúng ta cần thu xếp lối sống hiện đại lại.
04/09/2010(Xem: 2986)
Trong quá khứ sự cần thiết chủ yếu của con người là đất trồng trọt. Người ta không phải nghĩ đến những thứ nhân tạo. Tuy thế, những tác động có hại đến rừng vì dân số đông đảo và sự phát triển những loại hóa chất khác nhau trong không khí đã dẫn đến những loại mưa bất thường và trái đất ấm dần lên.
03/09/2010(Xem: 4864)
Những tiên đoán khoa học về thay đổi môi trường khó khăn cho những con người bình thường nhận thức thấu đáo một cách trọn vẹn. Chúng ta nghe về nhiệt độ nóng bức và mực nước biển dâng cao, tỉ lệ ung thư nâng cao, sự gia tăng dân số, tài nguyên cạn kiệt, sự tuyệt diệt của những chủng loại. Con người hoạt động khắp mọi nơi đang thúc đẩy nhanh chóng sự hủy diệt những yếu tố chìa khóa chính yếu của môi trường sinh thái tự nhiên mà tất cả các chủng loại phụ thuộc vào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567