Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

13/01/201115:06(Xem: 3121)
4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC

Làng Đậu

4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

Như có nhắc trong phần 3. Một cách phân chia trong Phật giáo về nhận thức thành ba loại dựa trên mức độ "khả kiến" của đối tượng là

  • Nhận thức trực tiếp: Loại nhận thức này có thể kiểm nghiệm ngay lập tức bằng các giác quan và có thể được chứng minh/ chứng nghiệm mà không cần thêm bất kì một công cụ hay suy diễn nào. Chẳng hạn như sự hiện hữu của 1 con voi trong gian phòng -- Tất nhiên, người ta có thể khẳng định hay phủ nhận trực tiếp sự kiện này mà không cần phán đoán hay bất kì công cụ nào. Tuy nhiên, xa hơn một tí có những sự việc tồn tại, nhưng chỉ vì nhận thức loại này không thấy được nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Chẳng hạn sự hiện hữu của một con vi trùng trong phòng. Không phải vì mắt ta không thấy mà nó không hiện hữu. Một thí dụ thứ ba về việc này nhận thức về sự hiện hữu của chiếc xe chạy bên ngoài gian phòng. Vấn đề ở chỗ tuy ta không thấy trực tiếp nhưng "dấu vết" bản chất trực tiếp của chiếc xe hơi vẩn có thể cho phép ta nhận định chính xác là nó hiện hữu thông qua các đặc tính chẳng hạn như tiếng kèn xe và tiếng máy nổ thực sự đặc trưng khiến người trong phòng qua thính giác không thể bị nhầm lẫn với các đối tượng vật chất khác. Trong thí dụ này thì âm thanh trực tiếp phát ra từ xa đóng vai trò chính cho sự nhận thức.
  • Nhận thức qua suy đoán hợp lý nhưng không trực tiếp: Loại nhận thức này khó thể có được đối với một người nếu người đó không dùng đến các "công cụ" suy luận lô-gíc chặt chẽ hay các công cụ thực nghiệm đáng tin cậy. Hiện tượng này được xem như là “hiện tượng thiếu rõ ràng hơi khó nhận biết” nhưng vẩn có thể đạt tới qua sự truy cứu chặt chẽ. Như trong thí dụ bên trên thì con vi trùng có thể được nhận ra thông qua kính hiển vi. Dĩ nhiên điều cần chú ý ở đây là công cụ gián tiếp này phải là công cụ đáng tin cậy (ở đây là kính hiển vi). Hầu hết các lý thuyết khoa học đều dựa trên phương pháp này. Một khi "công cụ" không đầy đủ hay chính xác thì lý thuyết đó cũng có thể do khiếm khuyết của "công cụ" mà dẫn đến sai sót ít nhiều hay toàn bộ. Cơ học Newton là một điển hình của nhận thức loại này. Sự chấp nhận nghiễm nhiênvề tính độc lập giữa không gian và thời gian7đã là một "công cụ" mà các nhà vật lý cổ điển dựa trên đó để hình thành hệ thống vật lý cổ điển. Thuộc tính này không chính xác đã dẫn đến nhiều điểm thiếu chính xác trong vật lý cổ điển. Đối với các hành giả thiền định thì tính khônglà loại tri thức thuộc loại này.
  • Nhận thức qua sự xác quyết của người khác: Dạng thứ ba của hiện tượng là các "hiện tượng cực kì bí ẩn", vượt quá tầm của nhận thức trực tiếp và suy luận logic thông thường. Nói chung chúng chỉ có thể được xác lập dựa trên sự xác quyết của người khác (hay sự khả tín của kinh điển). Về mặt khách quan, với cùng một sự kiện, đối với người thứ nhất là cực kì bí ẩn thì đối với người thứ nhì có khi chỉ là sự kiện suy luận nhận thức được và đồng thời đối với một người thứ ba lại có thể là trực tiếp nhận thức. Chẳng hạn như, đối với người mù bẩm sinh thì việc thấy màu xanh của lá cây là "cực kì bí ẩn" nhưng lại là trực tiếp đối với người thường. Ngược lại, các "màu sắc" hồng ngoại do sự vật phát ra trong đêm thì có thể là loại cần có "suy đoán", nhưng sẽ chẳng cần suy tư gì đối với một số loài vật.
    Tuy vậy, điều này lại có thể bị phê phán bởi các nhà khoa học vì tính "chủ quan" của nó. Nhưng nếu khảo sát ngược lại, ngay chính bản thân khối lượng tri thức khổng lồ của khoa học ngày nay cũng được từng cá nhân, với ít nhiều lý do chủ hay khách quan khác nhau, đã tiếp nhận mà rất ít khi chúng được trực tiếp kiểm tra rà soát lại về độ tin cậy, nhất là khi các kiến thức đó được cung cấp từ các học giả các giáo sư có uy tín. Việc tiếp thu các nhận thức "bí ẩn" kiểu này đúng ra đã được dùng rất phổ biến trong giới đồng nghiệp của những người làm khoa học chủ yếu là dựa trên lòng tin. Ngay cả các lý thuyết vật lý được dựng lên thì lòng tin vào nó cũng thường là dựa vào sự phán quyết của các "cha đẻ" ra lý thuyết đó. Nó sẽ được xem là nhận thức đúng đắn cho đến khi người nào đó tìm thấy nó là sai với thực tế.
    Ngược lại, từ phiá Phật giáo, rõ ràng nếu đứng ở khả năng hay trình độ "chứng nghiệm" chưa đầy đủ hay chưa chín mùi thì một cá nhân không thể nào (đúng hơn là chưa đủ năng lực hay trí huệ về mặt nhận thức hay chứng ngộ) tự mình rà kiểm lại những gì mà người khác đã chứng ngộ truyền giảng cho. Lòng tin đối với vị thầy ở đây đóng vai trò như một "công cụ" khả tín. Thực vậy, không có lý do gì một người thầy chưa từng "nói sai" với mình trong khi truyền thụ những kiến thức mà mình có thể tự kiểm nghiệm lấy lại chủ ý hay lừa dối để cung ứng cho mình một sự hiểu biết sai lạc khác. Chưa kể, giới hạnh Phật giáo không cho phép bất kì Phật tử nào (kể cả chính đức Phật) dối gạt.9Ngoài ra, đức Phật cũng lên án việc tu học mù quán cho thấy rõ chủ trương của Ngài (Xin xem lại Phát biểu của dức Phật trong phần dẫn nhập). Đồng thời, tôn chỉ tối cao của đạo Phật là trừ khử vô minhtức là loại bỏ những tri kiến nhận thức sai lầm hay không chính xác về thế giới thực tại ra khỏi tâm thức của cá nhân. Do vậy, xin bàn thêm, việc tìm ra một vị thầy khả tín và khế hợp với căn cơ người tu học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Hy vọng người làm khoa học cũng có thể rút ra các bài học gần tương tự.
    Như thế, ta thấy uy tín của người phát biểu nhận thức trong khoa học và trong Phật học không quá khác biệt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2011(Xem: 2949)
Khái niệm Ông Trời đã có từ lâu trong kho tàng văn chương dân gian Việt, nhưng hình ảnh Ông Trời không hề mang ý nghĩa một đấng sáng tạo vũ trụ, mà chỉ là một chúng sinh, một người rất người trên cõi trời.
02/09/2011(Xem: 5943)
Khoa học là sự hiểu biết về thế giới hiệntượng bên ngoài và các ứng dụng của sự hiểu biết ấy. Đấy là cách định nghĩa củakhoa học ngày nay. Thế nhưng cũng có một lãnh vực hiểu biết khác, thiết lập trênnguyên tắc tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác, đặc biệt liên hệ đên cáchiện tượng bên trong (tức nội tâm), và được ứng dụng vàocác hiện tượng như tri thức hay tâm thức chẳng hạn... Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
11/08/2011(Xem: 2992)
Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi trái luân lý. Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ sở khoa học.
25/07/2011(Xem: 6428)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
30/05/2011(Xem: 18540)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
28/05/2011(Xem: 5486)
Mức gia tăng dân số dự báo 3 tỷ người, mức tiêu thụ thịt toàn cầu tăng gấp đôi trong vòng 40 năm tới đang dẫn chúng ta đến cuộc khủng hoảng dinh dưỡng nghiêm trọng.
19/03/2011(Xem: 4275)
Nhiều người ngày nay đã hỏi, “Có phải sự tích tập nghiệp báo là nguyên nhân của những vấn đề như động đất, thí dụ trận động đất vừa tàn phá Haiti”? Nếu trả lời điều ấy, dần dần nó được giải thích rằng tích lũy nghiệp báo của tất cả những chúng sinh trên hành tinh này chịu trách nhiệm cho những đặc trưng phổ biến của hành tinh này và những yếu tố làm nên nó. Với những nhân tố hiện diện, những định luật khách quan của vật lý đã vận hành. Thí dụ, sức nóng tăng lên và những chuyển động đa dạng làm nên kết quả, thí như những mãng của trái đất trượt lên nhau, và v.v… Một biểu hiện của chuyển động ấy là động đất. Từ quan điểm này, động đất là những kết quả không tránh khỏi của hành tinh chúng ta sinh khởi như thế ấy; và nó đã từng sinh khởi như nó là kết quả của nghiệp báo tích lũy vô cùng rộng lớn của tất cả chúng sinh những kẻ đã từng sinh sống tự bao giờ trên hành tinh này. Ông có bình luận gì về điều này?
18/03/2011(Xem: 4464)
Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề cập đến nhiều tôn giáo hoạt động vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế nên chúng tôi nhân đây giới thiệu đến quý Phật tử cái nhìn đơn giản về những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay. Trong mục này vì phải đưa ra một số dữ kiện lịch sử cho nên mặc dầu luôn cố gắng giữ mình trên cương vị khách quan, trong tinh thần xây dựng, nhưng dầu sao ít nhiều chúng tôi cũng không tránh khỏi sự sai lầm để cho cái bản ngã đáng ghét, chủ quan hẹp hòi thiển cận của mình xuất hiện. Nếu có đoạn nào không hài lòng, xin quý độc giả rộng tình bỏ qua. Chân thành cảm tạ.
13/03/2011(Xem: 13156)
Các phần lý thuyết và thực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
22/02/2011(Xem: 4407)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567