Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

17/12/201016:17(Xem: 11170)
2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT

ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

2
TỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỰSỢ HÃI

« Sự sống của ta khicưỡng lại những nguyên nhân đưa đến cái chết giống như một ngọn đèn cưỡng lạimột cơn gió mãnh liệt »
Bảo hành vương chínhluận (Bồ Tát Long Thọ)


Vị Ban thiền Lạt ma thứnhất có viết một bài thơ gồm mười bảy tiết (đoạn) mà nhiều người Tây tạngthường đọc đi đọc lại để tập trung sự suy tư hằng ngày về cái chết. Tựa bài thơlà: Ước vọng được giải thoát khỏi những hiểm nguy của Giai đoạn Chuyển tiếp, Ngườican trường thoát khỏi sự sợ hãi. Muốn thoát khỏi tình thế hiểm nguy, chẳng hạnnhư bị trộm cướp, đạo tặc, hay thú dữ, ta cần có một người hướng dẫn can đảm,thông minh để bảo vệ ta. Cũng thế, muốn được giải thoát khỏi sự sợ hãi do nhữngảo giác hiện ra lúc chết và trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, tanên noi theo những lời khuyên trong bài thơ này, bài thơ sẽ chỉ cho ta những kỹthuật cần thiết. Khi nghiền ngẫm về bài thơ, ta sẽ học được phương cách pháthiện sự sáng suốt giúp ta vượt qua quá trình chuyển tiếp đó. Chết chính là lúctâm linh hiển hiện ở mức độ cao siêu nhất. Suy tư hằng ngày cũng có thể pháthiện được những trạng thái tâm linh như thế.

Bài thơ gồm một chuỗidài nguyện ước giúp cho mỗi người đem ra sử dụng khi cái chết xảy ra, trong mụcđích giúp tâm thức ứng phó một cách tích cực hơn. Một số người, trong lúc chết,tìm cách phát huy năng khiếu tốt lành sẳn có để tái sinh trong một kiếp sốngthuận lợi hơn. Mục đích của họ là đạt được sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sốngsau này để có thể tiếp tục tu học. Một số khác tìm cách dựa vào các cấp bậcthâm sâu của tâm linh hiển hiện trong khi chết để vượt lên những thể dạng tâmlinh cao thâm hơn nữa. Những người tu hành thì phát lộ lòng thiết tha phục vụkẻ khác.

Bài thơ của vị Ban-thiềnLat-ma thứ nhất đề cập đến ba cấp bậc tu tập khác nhau – những người tu tậpcao, những người đạo hạnh trung bình và những người còn thấp – cả ba cấp bậc tutập ấy đều hướng vào sự ước vọng giữ cho tâm thức vững vàng để vượt qua giaiđoạn chuyển tiếp trong khi chết, tức là khoảng thời gian tiềm ẩn giữa kiếp sốngnày và kiếp sống tương lai. Bài thơ còn chỉ dẫn chi tiết những gì nên làm trongtừng thời điểm một. Đạt được một mức độ tu tập nào đó trong những ngày còn lạitrong kiếp sống này quả là một điều cần thiết, đến khi chết ta có thể vượt quanhững giai đoạn trung gian hiệu quả hơn.

Khi cái chết bất thầnhiện ra, nếu ta không quen tu tập từ trước, thật khó cho ta ứng phó một cáchthuận lợi. Thời điểm hôm nay là lúc ta nên tu tập để chuẩn bị trước, vì lúc nàyđây ta đang hạnh phúc và có nhiều điều kiện thuận lợi. Nếu ta thực hiện được,đến khi cần đến trong lúc hiểm nguy thật sự, ta sẽ không gặp khó khăn gì cả.Nhưng nếu lúc ta còn đủ thì giờ để nghe, để suy tư, để nghiền ngẫm và thắc mắc,ta lại không chịu chuẩn bị cho giây phút hấp hối, đến khi đó mọi sự đã trễ rồi,ta sẽ không có gì che chở cho ta, chẳng có một điểm nương tựa nào, ta chỉ cònhai mắt để khóc. Tốt hơn là sớm tập suy tư thường xuyên về quá trình của cáichết trong giai đoạn trung gian giữa hai kiếp sống – để hình dung mọi biến cốsẽ xảy ra, giúp ta quen dần với chúng. Quả thật là hệ trọng, lúc này đây ta vẫncòn ngày giờ để tận dụng những khả năng tốt nhất của ta với mục đích sau này sẽgiúp ta vượt qua giai đoạn trung gian một cách hiệu quả.

Biết được quá trình củacái chết và các phương pháp tập luyện chưa đủ: phải thực tập hàng tháng hayhàng năm liền cho thật quen. Ngày hôm nay khi giác quan còn lanh lẹ, tri thứccòn tinh tấn, nhưng nếu tâm thức chưa quen với con đường đạo hạnh, khi chết tasẽ gặp nhiều bỡ ngỡ vì phải phiêu lưu trên những nẽo đường hoàn toàn xa lạ. Khichết, sức lực sẽ suy giảm vì bệnh tật, tinh thần sa sút vì lo âu. Bởi thế phảitập luyện để chuẩn bị cách đối phó trong khi chết. Không có gì thay thế được vàcũng chẳng có phương thuốc nào khác hơn.

Khả năng cần thiết đểhiểu được những điều ấy là tùy nơi quyết tâm của ta, quyết tâm tin rằng nhữngcảm nhận về hạnh phúc hay đớn đau đều trực tiếp lệ thuộc vào những hành vi đạohạnh hay tệ hại của chính ta. Trước hết, cần phải hiểu rõ quá trình của luậtnhân quả, hay nghiệp (karma), tức những hành động tốt phát xuất từ một tâm thứchiền hòa, những hành động xấu phát xuất từ một tâm thức hổn loạn. Tuy rằngthiện, ác, đều do thân, khẩu và ý tạo ra nhưng chính tâm thức dẫn đầu. Cộinguồn của sự tu học Phật giáo là hướng vào việc cải thiện tâm thức. Giáo huấnnhà Phật đòi hỏi ở ta một tâm thức kỷ cương giúp ta nhận biết chính ta lànguyên nhân đem đến an vui hay khổ đau cho chính ta. Phật đã từng nói như sau:

Chư Phật không tẩy sạchđược những hành động xấu bằng nước,
Cũng không xóa hết đượcnhững khổ đau do chính tay mình đã tự hoán chuyển cho mình,
Cũng không chuyển nhữngkhổ đau đó sang cho kẻ khác được.
Chúng sinh chỉ có thể tựgiải thoát bằng những lời giáo huấn liên quan đến thực thể và bản chất của vạnvật.
Chính ta là người tự chechở cho bản thân ta. An vui hay đau buồn nằm trong tay của chính ta.

NHÌN TỔNG QUÁT VỀ BÀITHƠ

Bài thơ của Ban-thiềnLạt-ma gồm mười bảy tiết, trình bày các kỹ thuật đặc biệt của Phật giáo giúp tavượt khỏi sự sợ hãi phát sinh từ cái chết và lợi dụng những chuyển biến của cáichết để thăng tiến trên mặt tâm linh. Tôi hy vọng việc mô tả các kinh nghiệm vàcác giai đoạn biến thể trên mặt vật chất sẽ giúp cho những ai cảm thấy cần hiểubiết về cái chết và các cấp bậc thâm sâu nhất của tâm linh có thể suy nghiệmmột cách hữu ích. Đó cũng là một nguồn dữ kiện giúp khoa học quan tâm hơn đếnsự hợp tác chung giữa các khoa học gia và những người luyện tập du-già trongmục đích tìm hiểu về những hiện tượng liên quan đến cái chết. Trong khi phầnđông các học giả cho rằng tâm thức phát khởi từ thân xác, thì một vài chuyêngia lại hình dung tâm thức là một thực thể riêng biệt có thể ảnh hưởng đến thânxác. Nếu những xúc động mạnh, chẳng hạn như hận thù, có thể gây ra ảnh hưởngtrên thân xác, thì cũng có những phương cách luyện tập chuyên biệt giúp rènluyện tâm thức, chẳng hạn như niềm tin, lòng từ bi, thiền định sâu xa về mộtđối tượng, suy tư về Tánh không của vạn vật, hoặc do các phương pháp thiền địnhđặc biệt của Ninh-mã phái[3] thuộc Phật giáo Tây tạng. Các kinh nghiệm đóchứng minh cho thấy sự luyện tập tinh thần đưa đến một chức năng độc lập có thểảnh hưởng đến thân xác, đi đến chỗ có thể làm cho thân xác hoàn toàn tự chủ.Tôi nghĩ rằng tham khảo các y tá trong các nhà dưỡng lão chẳng hạn về nhữngtriệu chứng khi sắp chết có lẽ rất hữu ích.

Bảy tiết đầu trong bàithơ của Ban-thiền Lạt-ma giúp ta phải chuẩn bị cái chết như thế nào. Tiết mộtnói về quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng (tức chương này), hai tiết tiếptheo (chương 3) đề cập đến việc rèn luyện tâm linh để ý thức được giá trị củasự sống. Hai chương này chỉ dẫn các phương pháp tốt nhất để suy tư về vô thườngtrong hiện tại, tính cách phù du của nó, mục đích giúp ta bớt bám víu quá đáng vàonhững những cảm nhận tạm bợ. Hai tiết bốn và năm (chương 4) khuyên ta phải tựđặt mình trong một phối cảnh như thế nào để có thể chủ động những khổ đau tộtcùng, chẳng hạn như những ảo giác vào giờ phút lâm chung. Hai tiết sáu và bảy(chương 5) chỉ cho ta biết cách kiểm soát cái chết dựa vào những điều đã tu tậptừ trước, đồng thời vẫn bảo toàn được sự trầm tĩnh. Ba tiết tiếp theo (chương6) mô tả chi tiết những biểu hiện trong bốn giai đoạn đầu tiên khi cái chết xảyra, cũng như các phương pháp chú tâm phải thực thi trong bốn giai đoạn ấy. Đoạnnày đòi hỏi ta phải hiểu rõ cách tan rã của các thành phần vật chất cấu tạo rathân xác, tức cơ sở nương tựa của tri thức và các cảm nhận liên đới với trithức. Các cảm nhận này sẽ mở đường đưa đến ba cấp bậc tâm thức tinh tế và thâmsâu hơn. Các biểu hiện của những cấp bậc tâm thức tinh tế sẽ được mô tả trongtiết tiếp theo (chương 7). Chương này cũng nói đến cấu trúc giữa tâm thức vàthân xác dựa theo « Tối thượng Du-già Tan-tra » [4]. Các tiết mười hai và mười ba(chương 8) mô tả phương cách ánh sáng tâm thức trong suốt phát hiện từ nhữngcảm nhận nội tâm chính yếu và cao độ nhất. Cấp bậc thâm sâu tột cùng đó của tâmthức làm nền tảng cho toàn thể phần tri thức của sự sống.

Bốn tiết sau cùng(chương 9 và 10) vừa mô tả trạng thái trung gian (sau khi đã chết hẳn và trướckhi tái sinh trong kiếp sau) vừa chỉ dẫn ta cách phản ứng trước những biến cốthường rất kinh hãi có thể xảy ra trong giai đoạn này. Dù ta còn đang ở trìnhđộ tu tập tinh thần nào đi nữa, các tiết này cũng sẽ chỉ rõ cho ta cách thứchướng dẫn sự tái sinh của ta.

Toàn thể mười bảy tiếtgiúp người tu tập chuẩn bị trước, đến khi chết sẽ tránh khỏi các tình huống bấtlợi, và giúp họ biết xử lý giai đoạn trung gian một cách hiệu quả, vì điều nàysẽ ảnh hưởng đến sự tái sinh trong kiếp sau.

MỞ ĐẦU BÀI THƠ: QUYPHỤC VĂN-THÙ SƯ-LỴ[5]

Trước khi khởi đầu bàithơ, vị Ban-thiền Lạt-ma bày rỏ sự sùng kính của mình, quy phục Bồ tát Văn-thùSư-lỵ, hiện thân cho Trí tuệ của tất cả chư Phật. Tác giả xem Văn-thù Sư-lỵ làthầy mình. Sự quy phục đối với Văn-thù Sư-lỵ của Ngài là do các lý lẽ sau.

Căn nguyên của một cáichết tốt lành, một giai đoạn chuyển tiếp thành công, kể cả Phật tính của nhiềukiếp sống, đều liên hệ đến kết quả tu tập viên mãn về ánh sáng tinh khiết phátsinh từ cái chết. Có hai phương pháp khác nhau: từ bi và trí tuệ. Thực hiện tutập về ánh sáng trong suốt trong khi chết là do trí tuệ phát huy. Trí tuệ đượctuần tự trình bày qua các cấp bậc tu tập về thể dạng thâm sâu phát xuất từ sựđối chiếu giữa những biểu hiện bên ngoài và Tánh không của sự hiện hữu nội tại– những lời giảng huấn này do vị thầy tốt của chúng ta là Phật Thích-Ca Mâu-nitruyền lại qua ngài Văn-thù Sư-lỵ. (Các trình độ giáo huấn khác nhau về lòngquyết tâm và những hành vi thiết thực khác là do Đức Di-lặc và Quán-Thế-ÂmBồ-Tát truyền đạt). Một cái chết thanh thản và những thể dạng chuyển tiếp giữahai kiếp sống đều nhất thiết liên hệ đến trí tuệ, vì thế ngài Ban-thiền Lạt-mađã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Văn-thù Sư-lỵ:

QUY PHỤC VỊ THẦYVĂN-THÙ SƯ-LỴ

Sau khi bày tỏlòng quy phục của mình đối với bậc trí tuệ, Ban-thiền Lạt-ma bắt đầu đọc thơ:

Tiết 1

Bản thân tôi và toàn thểkhông phân biệt bất cứ sinh linh nào trong không gian, xin qui y chư Phật củaquá khứ, của hiện tại, của tương lai, xin qui y Pháp, xin qui y Tăng,
Cho đến khi nào đượchoàn toàn giác ngộ.
Cho chúng tôi được giảithoát khỏi sự sợ hãi trong kiếp sống hiện tại, trong giai đoạn chuyển tiếp, vàcho cả về sau.

Người Phật tử noi theogiáo lý của Phật bằng sự cố gắng của chính mình và nượng tựa nơi Phật như mộtvị Thầy. Họ dựa vào giáo lý của Phật (những lời giáo huấn tùy theo các cấp bậcthực hiện) và đặt niềm tin nơi tập thể những người hướng dẫn tinh thần . Nhậptâm vào những lời giáo huấn ấy sẽ giúp ta tránh khỏi khổ đau. Người Phật tử xemTam Bảo (Phật, Giáo lý của Phật, Tăng đoàn) là nơi nương tựa tột cùng.

Nương tựa trong mục đíchlàm nhẹ bớt khổ đau và tránh khỏi luân hồi cho riêng ta sẽ không hội đủ sứcmạnh để đặt được sự an trú tối thượng. Cách nhìn ấy còn quá hạn hẹp. Muốn đạtđược Phật tính phải hướng vào sự an lành của tất cả các sinh linh có giác cảm,giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Mục tiêu tiên khởi nhất về sựhiểu biết toàn năng của Phật tính là giúp đỡ kẻ khác.

Thật cần thiết phải nghĩđến tất cả mọi sinh linh trong không gian và phải hướng đến việc tu tập trongmục đích đạt được Giác ngộ tột cùng và tối thượng, thực hiện những nguyện vọngnhư thế sẽ giúp ta vượt xa hơn những người tu tập nhắm vào các mục đích hạn hẹp.Cách tu tập trên đây đòi hỏi phải loại trừ mọi chướng ngại, không những để giúpta thoát khỏi vòng luân hồi, mà còn đưa ta đến sự hiểu biết toàn năng. Sự tỉnhgiác cuối cùng, còn gọi là niết bàn tối thượng, vượt xa hơn hai cực đoan là chukỳ sinh, bệnh, tử (samsara), và thể dạng an lạc bất động, các thể dạng hạn hẹpấy chỉ để giúp ta tự giải thoát ra khỏi chu kỳ của khổ đau, nhưng thiếu hẳn khảnăng giúp đỡ kẻ khác.

Ngài Ban-thiền Lạt-mathứ Nhất khuyên ta nên nương tựa vào Phật, vào giáo lý của Phật và Tăng đoàn đểđạt đến Giác ngộ tột đỉnh trong mục đích đem đến sự an lạc cho tất cả chúngsinh. Điều này gọi là sự nương tựa vào nguyên nhân: ta quy y nơi Tam Bảo đanghiện hữu trong chính tâm linh của kẻ khác – quyết tâm làm chấm dứt mọi khổ đauvà phát huy những thể dạng tinh thần chế ngự những khổ đau đó. Khẩn cầu nhữngngười đã đạt được Tam Bảo là khơi động lòng từ bi của họ, lòng từ bi đó takhông đặt trở lại trong lòng họ mà chính để mở rộng lòng ta.

Hướng vào sự nương tựanguyên nhân chính là noi theo cách tu tập Đạo Pháp do chính vị Thầy là Đức Phậtthuyết giảng. Ngài xem Tăng đoàn là khuôn mẫu cao nhất trong sự thực hiện. Nếuta chọn con đường tu tập, sau khi đã vượt qua nhiều cấp bậc trên đường giảithoát khổ đau, đạt được một trình độ cao, có nghĩa là ta trở nên một thành viêncủa Tăng đoàn. Sau đó, trên đường giải thoát khỏi luân hồi mọi chướng ngại sẽbị loại bỏ dần dần, và rồi ta sẽ trở thành một vị Phật. Khi đã tự giải thoátkhỏi mọi sợ hãi, ta sẽ đạt được sự hiểu biết toàn năng giúp ta hiểu được bảnchất những người xung quanh và từ đó sẽ tìm được những phương cách thích nghiđể giúp họ. Để giúp thực hiện điều ấy, tiết đầu tiên của bài thơ khuyên ta hãynên cầu khẩn lòng từ bi của Tam Bảo.

Quy y là điểm khởi đầucho mọi việc tu tập, vì thế bài giảng của Ban-Thiền Lạt-ma đã nhắc đến điều nàynhư một ước nguyện tiên khởi. Không quy y khó thành công trong sự tu tập. Tháiđộ hoàn toàn tin tưởng nơi Tam Bảo cũng chưa đủ. Phật từng nói: « Ta thuyếtgiảng con đường Giải Thoát cho các con, nhưng phải hiểu rằng sự giải thoát làdo chính nơi các con ». Phật chỉ là người Thầy thuyết giảng, Phật không đemtặng cho ta sự giải thoát: chính mỗi người trong chúng ta phải tự trau dồi phẩmhạnh, thiền định và sáng suốt.

Chẳng hạn như câu thầnchú Om Mani Padme Hum[6] , mà người ta thường đọc lên để đánh thức lòng từ bicủa chính họ hướng vào tất cả muôn loài sinh vật. Sau khi dứt một loạt niệm chú– hai mươi mốt, một trăm lẽ tám lần, hay nhiều hơn nữa –, hiệu quả của nó sẽhiển lộ minh bạch hơn trong bài tụng niệm tiếp theo đây, hướng đến Quán-Thế-ÂmBồ-Tát, tượng trưng cụ thể cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Bài tụng niệmnhư sau:

Nhờ vào đức hạnh tu tập
Tôi ước mong đạt đếntrạng thái
Ngang với trạng thái củaQuán Thế Âm Bồ Tát
Để giúp đỡ tất cả muônloài sinh linh đều được ngang hàng như vậy.

Không thể nào đạt đượcPhật tính bằng cách chỉ niệm câu Om Mani Padme Hum, nhưng nếu sự tụng niệm điđôi với lòng thương người thật sự, ta có thể đạt được Phật tính. Cũng giống nhưthế, khi ta thụ giáo, gặp gỡ, hoặc đi nghe một vị thầy giỏi thuyết giảng, sẽảnh hưởng đến ta một cách tích cực và giúp ta đạt được những kinh nghiệm tâmlinh sâu xa hơn. Lúc khai mạc những buổi hội chính thức, người thầy giám hộ lớntuổi nhất của tôi là Ling Rinpoché và tôi đều cuối đầu trước mặt nhau đưa tráncủa chúng tôi chạm vào nhau, hoặc trong những dịp gặp gỡ khác, tôi cầm lấy tayông đặt lên trán tôi, cử chỉ này truyền sang cho tôi một sức mạnh thật sâu kínlàm gia tăng niềm tin tưởng và sự tự tin của tôi. Vào thời Đức Phật, người nàokính trọng và yêu mến thật sự thì ôm lấy chân của Phật, điều đó mang đến điềulành cho họ. Nhưng nếu kẻ nào không có một chút tin tưởng hay kính trọng nàothì dù có ôm lấy chân Phật và đặt trán mình lên chân Phật cũng chẳng có mộthiệu quả nào. Nếu người thầy cho nhiều thì người đồ đệ còn phải cho nhiều hơnnữa.

Có một vị Lạt-ma rấttuyệt diệu trong tỉnh Amdo, khi có người nào xin ông đặt tay lên đầu để truyềncho mình điều lành, thì ông vẫn thường nói với họ: « Tôi không phải là một vịLạt-ma có thể ban bố sự giải thoát bằng cách đặt bàn tay lên đầu của bất cứ ai,vì bản chất của bàn tay đã là đau khổ rồi ».

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1- Điểm khởi đầucủa việc tu tập là sự an lành của tất cả mọi sinh linh – tức là sự giải thoátkhổ đau cho tất cả muôn loài để đạt đến sự toàn thiện. Hãy trau dồi chủ đích đótrong trong mục tiêu giúp đỡ kẻ khác nhiều chừng nào hay chừng ấy.

2- Chư Phật thuyết giảngcon đường tu học, nhưng không đem tặng ta một kết quả sẵn có nào cả. Mỗi ngày,chính ta phải tự tu tập về đức hạnh, thiền định và nâng cao sự sáng suốt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/11/2018(Xem: 11395)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
20/11/2018(Xem: 5057)
Ngày nay, nhân loại tiến vào lãnh vực khoa học đời sống, khoa học vật chất và nhiều lãnh vực khác nhau bằng kiến thức và trí thông minh vượt bậc. Nâng cuộc sống lên tầm mức tiện nghi mà những thế hệ cha ông trước đây chưa được chứng kiến và hưởng thụ.
03/06/2018(Xem: 22005)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10657)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
14/03/2018(Xem: 10374)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 11510)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
03/03/2018(Xem: 23659)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
03/03/2018(Xem: 7952)
Có những vần thơ gắn liền với mỗi người từ thuở biết viết, biết đọc cho đến lúc trưởng thành, đi theo suốt cuộc đời, và cũng có thể…cho đến hơi thở cuối cùng. Những vần thơ hay những câu thơ của những thi sĩ nổi danh mà mình đã thuộc nằm lòng, đã ghi nhớ tận đáy sâu của ký ức, và bỗng một lúc nào đó, ở một tình huống nào đó, một nhân duyên nào đó, tự chúng hiện ra một cách tự nhiên trong dòng tư tưởng, sự nghĩ suy, và bộc ra thành lời nói như là của chính mình và đôi lúc, chỉ nhớ đến vần thơ, câu thơ đó mà cũng không hề nhớ đến tác giả là ai nữa ! Các vần thơ, các câu thơ ấy thực sự đã gắn liền với mình, với đời sống mình, đôi lúc còn được xem như là kim chỉ Nam để giúp mình phản ứng, cư xử trước mọi hoàn cảnh, vui hay buồn, tốt hay xấu đang xảy ra.
03/02/2018(Xem: 14563)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
22/01/2018(Xem: 7989)
Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng 16 ngày, bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567