Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ứng Dụng Các Nguyên Lý Phật Giáo Vào Nghiên Cứu Và Phát Triển Trong Khoa Học - Bài II

13/01/201115:30(Xem: 3565)
Ứng Dụng Các Nguyên Lý Phật Giáo Vào Nghiên Cứu Và Phát Triển Trong Khoa Học - Bài II

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO

VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Bài II

Làng Đậu

Các bạn thân mến,

Trong một thời gian khá lâu người viết đã không có dịp tiếp tục với đề tài này. Phần là vì sự bận rộn gia tăng do bởi một nền kinh tế Hoa Kỳ khá ảm đạm (nên phải lo "giữ mồm" trước :-) phần nữa là thật sự để vận dụng được một ý kiến triết học nào đó thì điều cần thiết là người vận dụng phải thẩm thấu được cốt lõi của ý kiến đó đồng thời lại phải tự thân lọt vào các tình huống hay cơ hội thuận tiện để các hiểu biết bộc lộ ở dạng ứng dụng. Vô duyên thì dù có muốn cũng hỏng. Mãi đến nay mới có dịp xin trình tiếp với các bạn bài thứ nhì là vậy.

Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giả và chúng sinh khỏi đau khổ luân hồi. Ngay chính đức Phật lúc còn tại thế cũng tránh không trả lời cho người ngoài đạo các câu hỏi triết lý xa vời vốn it liên can đến sự tu chứng để giải thoát -- thế thì việc cố ý sử dụng các nguyên lý, đạo pháp hay các lời dạy từ trong Phật giáo phải chăng là một kiểu đi ngược với mong mỏi và mục tiêu ban đầu mà đức Phật đã đề ra hay không, và hơn thế nữa, đạo Phật vốn chỉ áp dụng cho loài hữu tình có ý thức (nhất là người) thì dính dáng chi đến việc ứng dụng vào các nghiên cứu có tính vật chất thường tục?"

Câu hỏi ở đây có hai ý: Thứ nhất, dĩ nhiên mục tiêu tối hậu của Phật giáo là đạt giải thoát khỏi đau khổ của luân hồi nhưng để đi đến được các giải thoát đó, cần có các yếu tố đủ chín mùi mà trong đó hành giả phải tích tụ đủ duyên nghiệp phù hợp -- Như thế, việc nuôi dưỡng lòng từ bi là một yếu tố quan trọng tương đương không kém so với việc phát triển trí tuệ. Bởi đó động lực của hành vi vị tha không phân biệt thân sơ, giữ vai trò quan trọng để tạo duyên/nghiệp như thế.

Vậy thì việc tìm cách ứng dụng của Phật học vào các nghiên cứu nhằm đem lại phúc lợi và tiến bộ cho đời sống con người cũng sẽ không khác chi các hành vi từ bi khác, có khác chăng là việc các ứng dụng vào khoa học nếu có của Phật học càng tạo thêm được các bằng chứng về sự đúng đắng cũng như nuôi dưỡng tín tâm vào Phật giáo.

Ý thứ hai về việc áp dụng của Phật giáo thật ra có một cơ sở biện chứng rõ ràng: Dù nhiều đối tượng của các nghiên cứu khoa học không thuộc diện con người hay chúng sinh có tâm thức, nhưng khi nhìn vào các khía cạnh chung thì cả ý thức lẫn vật chất đều chia sẻ cùng nhau các luật cơ bản đó là luật duyên khởi và vô thường chóng vánh. Như thế, dòng sinh diệt liên tục của chúng đều có thể ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Cả hai cùng chịu các tác động như nhau của môi trường nên các phản ứng tùy trường hợp sẽ có thể giống nhau nhiều hay ít.

Thứ đến, quan trọng hơn, điều cần chú ý là các đối tượng nghiên cứu khoa học đặc biệt là các sản phẩm có đặc tính tinh khôn dù ở bậc thấp (như các máy vi tính, các robot, ...) đều là sản phẩm của ý thức nên ít nhiều phải có dấu vết của ý thức tác động lên các chức năng và các hoạt động của chúng (bao gồm ý tưởng áp dụng các lý thuyết toán học và vật lý vào các kiến trúc máy tính chẳng hạn), và do đó, sẽ có một số đặc tính sao mượn hay phản ứng theo cách mà ý thức của người sáng tạo đã cài lên nó. Do đó, việc áp dụng Phật giáo lên các đối tượng phi tâm thức của khoa học là hoàn toàn khả thi miễn là người nghiên cứu biết mình đang làm gì và điều đó có hợp lý hợp tình hay không. Tức là phải hiểu rõ phạm vi nào để ứng dụng.

Mặc dù đã hết sức cố gắng để dùng lời văn giản dị, nhưng vì các ví dụ trong bài đều có thể cần đến nhiều thuật ngữ chuyên môn trong khoa học máy tính. Các thuật ngữ này vốn chưa được tiêu chuẩn hóa sang Việt ngữ. Do đó, sự trình bày sẽ ít nhiều đòi hỏi người đọc chú tâm ở mức cao cũng như có một kiến thức đủ về các thuật ngữ máy tính.

Cuối cùng, bài viết này được khởi lên từ nguyện vọng mong muốn chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp cùng "tình trạng", đây không phải là bài giáo khoa lại càng không phải là bài giảng Pháp dù rằng hầu hết các ý kiến trong bài viết liên quan đến triết lý nhà Phật đều đã được nêu trong các kinh luận. Cho nên, nếu có các lỗi lầm thì người viết xin nhận lấy trách nhiệm và xin cảm tạ các ý kiến chỉ dạy. Ngược lại, nếu nó đem lại chút ít lợi ích cho chỉ một người đọc thôi thì bài viết đã hoàn tất nhiệm vụ. Mọi liên lạc về nội dung bài viết xin hoan hỉ email về [email protected]. Xin cảm tạ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2012(Xem: 4960)
Đối với vũ trụ học Phật Giáo, vòng lưu chuyển của đời sống của một vũ trụ là tuần hoàn. Có một thời điểm hình thành (thành), một thời điểm trải qua (trụ), một thời điểm suy tàn...
12/03/2012(Xem: 4434)
Con người quyện kết với lòng trắc ẩn, yêu thương và hợp tác. Bởi vì chúng ta là những động vật tâm lý, tuy thế, một nhân tố luôn tái hiện khống chế nhiều hành vi của chúng ta. "Chiếc bóng" của chúng ta như C.G. Jung đã gọi, là nhân tố [tiềm ẩn và thường hoạt hóa] kiềm chế cá tính, có khuynh hướng cho rằng đời sống của chính nó bởi vì nó được hình thành như một bộ phận của chính chúng ta mà ta không biết và do thế không thể hợp thành một thể thống nhất vào trong đời sống ý thức của chúng ta. Điều làm cho chiếc bóng này ngay cả rắc rối hơn không chỉ là một vấn đề cá nhân. Những chiếc bóng của chúng ta có thể hợp nhất lại với nhau, như thường xảy trong thời chiến tranh, thí dụ, khi kẻ thù đi đến biểu tượng hóa mọi thứ xấu xa và đáng khinh bỉ về bản chất con người.
04/03/2012(Xem: 53973)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
28/02/2012(Xem: 7603)
Phật pháp vô lượng Giáo lý vô biên Ta bước lên thuyền Mong qua khỏi bến Niết bàn sẽ đến Chú trọng tinh thần Suy lý tìm chân Ấy là thức ngộ Hành là tự độ Rồi mới độ tha Vượt biển ta bà Về nơi an lạc
27/02/2012(Xem: 5012)
Nhiều người muốn tạo sinh vì nhiều lý do khác nhau. Hoặc là họ muốn làm sống lại một người thân yêu đã chết. Hoặc là họ muốn mình trường sanh bất tử.
17/02/2012(Xem: 4155)
Đức Phật khi còn tại thế đã luôn luôn từ chối việc dùng giáo lý để thỏa mãn khao khát kiến thức con người... Nguyễn Điều
04/02/2012(Xem: 12706)
Được xuất bản nhân dịp một trăm năm ngày sinh của J.Krishnamurti, Lửa trong Cái Trílàmột quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti.Được tổ chức từ cuối những năm 1960 đến ngày 28 tháng 12 năm 1985, bảy tuầntrước khi ông chết vào ngày 17 tháng 2 năm 1986, những đối thoại này bao gồm vôvàn những quan tâm của con người – sợ hãi, đau khổ, chết, thời gian, lão hóa vàsự mới mẻ lại của bộ não.
17/01/2012(Xem: 8781)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 5139)
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn... Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
15/01/2012(Xem: 5880)
Từ một tình trạng không có gì, phi thời gian không gian, không cần một nguyên nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất. Đó là hiệu ứng được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử”, xuất phát từ sự tăng giảm không đều của năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người sáng tạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]