Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái niệm của Phật giáo về môi sinh và đạo đức môi sinh

31/08/201017:56(Xem: 3344)
Khái niệm của Phật giáo về môi sinh và đạo đức môi sinh

KHÁI NIỆM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ MÔI SINH VÀ ĐẠO ĐỨC MÔI SINH

HT. Thích Chơn Thiện

Trong bài viết này, có 3 điểm chính được đề cập :
I. Các khái niệm cơ bản về Môi sinh và khủng hoảng Môi sinh.
II. Khái niệm của Phật giáo về Môi sinh.
III. Đạo đức Môi sinh.

I. Khái niệm cơ bản về Môi sinh
và cuộc khủng hoảng Môi sinh.

1. Khái niệm về Môi sinh.

Môi sinh tương đối là một khoa học mới liên hệ đến nhiều nguyên lý điều hành các mối liên hệ giữa các sinh thể và Môi sinh. Có nhiều định nghĩa về Môi sinh. - đây chỉ đơn cử một số. P. D. Sharma (F.N.I.E., Ban (Khoa) Thực vật học, Đại học Delhi) đã viết trong tập sách của ông nhan đề "Sinh thái học và Môi sinh" rằng:

"Ngày nay Sinh thái học đã và đang đóng góp rất nhiều cho các chính sách về xã hội, kinh tế, chính trị và các chính sách tương tự của thế giới. Thật rất phổ biến khi kiếm tìm các tham khảo về sinh thái học trong các bài viết, tạp chí, tuần báo và nhật báo về xã hội, kinh tế học. Môi sinh thật sự giữ một vai trò quan trọng trong vấn đề an sinh của con người. Đây chủ yếu là chủ đề của một ngành học, và ngành học sinh thái hiện tại chú trọng đến chức năng các tương thuộc giữa các sinh thể và môi trường sống của chúng". (1)

P.D. Sharma tiếp :

"Không phải chỉ có Môi sinh ảnh hưởng đến các sinh thể, mà các sinh thể cũng bổ sung cho Môi sinh như là kết quả của sự phát triển, phân tán, tái sản sinh, chết, tan hoại... của các sinh thể. Như vậy Môi sinh được gây nên sự đổi thay do các hoạt động của các sinh thể. Môi sinh và các sinh thể năng động mở đường phát triển cho nhiều loại sinh thể khác qua một quá trình được gọi là sự kế thừa. Quá trình ấy tiếp tục cho đến khi sự phát triển của cộng đồng như hiện tại tự nó có thể tự điều chỉnh cân bằng với Môi sinh. Giai đoạn cuối này của cộng đồng được gọi là đỉnh cao của phát triển". (2)

Hai đoạn trích dẫn trên đây chứng tỏ rằng có một mối liên hệ sinh động giữa con người và Môi sinh, mối liên hệ ấy liên tục, bất khả phân và tự nhiên. Mối liên hệ rất mật thiết này nói lên rằng quấy nhiễu Môi sinh có nghĩa là quấy nhiễu đời sống của các cá nhân như chúng ta có thể thấy từ cuộc khủng hoảng Môi sinh đương thời.

2. Cuộc khủng hoảng Môi sinh.

Nhóm hội thảo về ô nhiễm (Môi sinh) của Ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống (USA) định nghĩa từ "ô nhiễm" trong bản phúc trình của nhóm nhan đề "Phục hồi phẩm chất Môi sinh của chúng ta", tổ chức vào tháng 11-1965, rằng :

"Ô nhiễm Môi sinh là sự thay đổi không thuận lợi về môi trường sống chung quanh, như là toàn thể hay phần lớn hậu quả của các hoạt động của con người, qua các ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp về sự thay đổi các mẫu hình năng lượng, các cấp độ phóng xạ, qua sự cấu thành thuộc vật lý hay hóa học và qua sự thừa thãi của các sinh thể. Các thay đổi này có thể trực tiếp ảnh hưởng đến con người, hay ảnh hưởng qua sự cung cấp nước và cung cấp các sản phẩm nông nghiệp, sinh vật, qua các tư hữu hay các đối tượng vật lý, hay qua các dịp con người giải trí, tìm hiểu thiên nhiên". (3)

Đề cập đến vấn đề "năng lượng hạt nhân - sự cứu rỗi hay trừng phạt", E.F. Shumacher, trong tập sách của ông nhan đề "Những cái nhỏ bé là tốt đẹp" (Smallis Beautiful), viết :

"Về tất cả những đổi thay mà con người đã đưa vào ngôi nhà của thiên nhiên thì sự phân hạch hạt nhân với quy mô lớn hẳn rõ là điều sâu xa và nguy hiểm nhất. Các bức xạ hạt nhân là hậu quả đã và đang trở nên một nhân tố nghiêm trọng nhất cho vấn đề ô nhiễm Môi sinh, và là sự đe dọa lớn nhất cho sự tồn tại của loài người trên trái đất. Không còn ngạc nhiên gì nữa, bom nguyên tử đã thu hết sự chú ý của người đời, dù đang còn ít nhất một cơ hội mà nó sẽ không bao giờ được sử dụng nữa. Cái nguy hiểm đối với nhân loại gây ra do việc dùng năng lượng nguyên tử phục vụ hòa bình có thể còn to lớn hơn nhiều". (4)

Lại nữa, việc các cường quốc vứt bỏ các thừa thãi vào đại dương, vứt bỏ các đồ phế thải vào sông hay vào lòng đất, giao thông thải các khí, cháy rừng... là các nguyên nhân chính của ô nhiễm. Các khối lượng khí CO2 (Carbonic) phóng ra ngày càng nhiều làm cho bầu không khí chung quanh trái đất nóng dần lên làm thay đổi khí hậu rất nguy hại đến đời sống của con người. Thật là nguy hiểm và kinh sợ !

Bấy giờ người ta có thể nêu lên vấn đề : Phật giáo có thể đóng góp gì cho việc giải đáp cuộc khủng hoảng Môi sinh hiện tại ? Có thể đóng góp gì cho việc bảo vệ Môi sinh ?

II. Khái niệm của Phật giáo về Môi sinh.

1. Giáo lý Duyên khởi (Paticcasamuppada).

Như chúng ta biết giáo lý Duyên khởi mà đức Phật đã chứng ngộ nói lên rằng : Do Vô minh mà có Hành ; do Hành mà có Thức ; do Thức...; do Danh Sắc...; do Lục Nhập...; do Xúc...; do Thọ...; do Ái...; do Thủ...; do Hữu...; do Sanh mà có lão tử, sầu bi, khổ, ưu, não. Trong đó, Danh và Sắc không bao giờ tách khỏi nhau, và cũng không bao giờ tách rời khỏi 11 chi phần nhân duyên còn lại. Cũng thế đối với Hữu (Tam Hữu). Thế nên Sắc bao gồm thân thể vật lý của con người và thế giới vật lý. Sự vận hành của Sắc là sự vận hành của các hoạt động của tâm thức (Danh), và ngược lại. Điều này nói rõ rằng Môi sinh và đời sống con người là tương hệ.

2. Ngũ Thủ Uẩn (Panãca Khandhas)

Tương tự như trên đối với sự vận hành của 5 uẩn :

Đức Phật dạy :

"Này các Tỷ kheo, Ta sẽ dạy cho các Thầy 5 uẩn và 5 thủ uẩn. Hãy lắng nghe. Này các Tỷ kheo, thế nào là 5 uẩn ? Tất cả sắc, này các Tỷ kheo, thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, thuộc trong hay ngoài, thô hay tế, thấp hèn hay cao sang, xa hay gần, đều gọi Sắc uẩn. Tất cả Thọ, Tưởng, Hành, tất cả Thức thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai..... Đều gọi là Thức uẩn". (5)

- đây, cái gọi là Sắc uẩn của chúng ta bao gồm cơ thể vật lý của cá nhân và thế giới vật lý ở bên ngoài. Nói khác đi, Môi sinh là một phần khắng khít của cơ thể vật lý của chúng ta. Điều này gợi ý lên cho nhân loại nhiều điều bổ ích.

III. Đạo đức Môi sinh.

Nay chúng ta không ngần ngại nói rằng chúng ta bảo vệ Môi sinh khỏi ô nhiễm thực sự là bảo vệ đời sống và hạnh phúc riêng tư của chúng ta. Đây là sự thật và là tự nhiên. Đây cũng là ý nghĩa được bao hàm trong lời dạy về Từ bi (Mettà) sau đây :

"Tất cả chúng sinh : yếu hay mạnh, cao, to hay trung bình, thấp, nhỏ hay lớn, không trừ một ai, các chúng sinh được thấy hay không được thấy, những ai sống xa hay gần, đã sanh hay sẽ sanh, mong rằng tất cả sống hạnh phúc !

Mong không có ai lừa dối ai, không có ai khinh rẻ ai tại bất cứ nơi đâu. Mong rằng mỗi người đừng mong làm thương tổn người khác vì giận hờn hay vì sân.

Như người mẹ che chở cho người con độc nhất của mình trọn đời, cũng thế, mong mỗi người hãy tu tập tâm vô lượng đối với tất cả chúng sinh". (6)

Như thế, vạn hữu trong hiện tại và trong tương lai cần được bảo vệ (chở che) như người con độc nhất được người mẹ thương yêu che chở.

Đấy là khái niệm về Môi sinh của Phật giáo.

Từ cái nhìn sự vật này, có thể xây dựng một hệ thống đạo đức Môi sinh.

1. Đạo đức.

Từ điển Giáo dục (2nd. Ed. Mc Graw-Hill...) định nghĩa :

"Môn học về tánh hạnh con người, không phải chỉ tìm hiểu sự thật như thật, mà còn tìm hiểu giá trị của điều thiện về các hành động của con người ; Khoa học về hạnh kiểm con người ; liên hệ đến các phán xét điều phải làm (phải và trái, bổn phận phải làm) và với các xét đoán về giá trị (thiện hay ác)" (p.208).

Về ý nghĩa nhân bản, đạo đức có nghĩa là :

"Lý thuyết khám phá ra các chuẩn mức và mục tiêu về hạnh kiểm trong sự an sinh về xã hội, tâm lý và sinh lý của các cá nhân, những cá nhân làm thành xã hội". (Ibid., p.208).

2. Đạo đức Môi sinh.

Chúng ta có thể hình dung ra rằng con người sinh ra để hạnh phúc mà không phải để khổ đau. Tiêu chuẩn đúng của hành động thiện của con người hẳn là cần được xây dựng trên cơ sở sự an sinh thuộc xã hội, tâm lý và sinh lý của con người và sự an ổn của Môi sinh. Ngược lại là hành động ác. Con người phải chọn lựa một trong hai giá trị ấy. Để chọn lựa, con người cần quan tâm đến các điểm chủ yếu sau đây :

1. Hầu như mọi giá trị của nền văn hóa đương đại là xây dựng trên tư duy hữu ngã (vô minh), các giá trị ấy cần được soi sáng dưới ánh sáng của Duyên Khởi (vô ngã # minh). Nói khác đi, giáo lý Duyên Khởi cần được quảng bá rộng rãi trong thể giới giáo dục và trong xã hội để hình thành một hướng mới văn hóa bảo vệ Môi sinh.

2. Giáo lý Duyên Khởi nói lên rằng "Một" hiện hữu trong "Tất cả", và "Tất cả" hiện hữu trong "Một". Ô nhiễm hay rối loạn ở nơi này là ô nhiễm hay rối loạn ở những nơi khác trên thế giới. Sự thật này yêu cầu các cá nhân, tổ chức và mọi quốc gia có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ Môi sinh cùng lúc vì sự sống còn của nhân loại.

3. Sự thật Duyên Khởi cần được đưa vào Sinh thái học làm lý thuyết căn bản, và cần được xem là triết lý Môi sinh và đạo đức Môi sinh.

4. Ngoài ra, việc kêu gọi ngưng thử nghiệm nguyên tử và hóa học cần được lập lại nhiều lần. Cũng thế đối với việc kêu gọi hạn chế cái gọi sử dụng năng lượng nguyên tử cho các mục tiêu hòa bình, và tạo ra biện pháp an toàn cho việc loại bỏ các chất thải từ các nhà máy và các xưởng công nghiệp.

5. Biện pháp hạn chế các việc thải các hơi độc trong không gian.

6. Các biện pháp bảo vệ rừng và các động vật khỏi các sự tàn phá.

7. Các biện pháp xây dựng hòa bình lâu dài trên thế giới.

8. Điều sau cùng nhưng quan trọng nhất là giúp con người hiểu và kiểm soát dục vọng (lòng khát ái) (có nghĩa là tham, sân, si) vốn là nguyên nhân cơ bản của mọi nguyên nhân gây ra ô nhiễm Môi sinh. Có nghĩa là giải thoát sự ô nhiễm tâm thức. Nếu các ham muốn dục lạc, dục tình càng ngày càng gia tăng như đang xảy ra thì sẽ không có cách nào để bảo vệ Môi sinh như những điều mà chúng ta học được từ giáo lý Duyên khởi : chỉ còn một điều còn lại : sự tàn lụi, khổ đau và sự hủy diệt đối với các sinh thể trên thế giới.

Sự phát triển tương lai của nhân loại cần được hướng dẫn bởi Chánh kiến và Chánh tư duy (có nghĩa là Trí tuệ) như những gì đức Phật đã dạy chúng ta, và đạo đức Môi sinh cần được xây dựng trên nền tảng Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh và Chánh niệm. Đây là con đường sống duy nhất. Con người không còn có chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác.

Thích Chơn Thiện

(1). P.P. Sharma, ""Ecology and Environment", Rastogi Publications, 6th. Ed., 1992, p.2.
(2). Ibid., p.14
(3). Edward J. Kormondy, "Concept of Ecology", Prenticehall of India, Private Limited, New Delhi- 110001, 1991, p.246.
(4). E. F. Schumacher, Small is Beautiful", an Abacus book, Printed in England by Clays Ltd. St. Iros plc, 1993, p.112.
(5). Kindred Sayings, Vol. III, PTS, Oxford, London, 1992, pp.41-42.
(6). Mettà-suttam, "Sutta-Nipata", Tr. H. Saddhatissa, Curzon Press, London, 1985, p.16.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2021(Xem: 10729)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11905)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12408)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15288)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12188)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 17142)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
09/03/2021(Xem: 6254)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
29/11/2020(Xem: 12771)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7965)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20513)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567