Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Ðường Trung đạo của Ðức Phật và Tâm lý trị liệu pháp của phương Tây

10/05/201311:49(Xem: 3103)
Con Ðường Trung đạo của Ðức Phật và Tâm lý trị liệu pháp của phương Tây

PHẬT GIÁO & KHOA HỌC
Buddhism & Science

Việt dịch:Trần Như Mai

---oOo---

Con Ðường Trung đạo của Ðức Phật
và Tâm lý trị liệu pháp của phương Tây

( TheBuddha’s Middle Way and Western Psychotherapy )
Nguyên tác: Shanti Tayal

Mục đích của tâm lý trị liệu pháp là để chữa trị, thoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của những người đang bị dày vò bởi nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống, hay những người được chẩn đoán là đang mắc bệnh tâm thần. Về điểm này, một số câu hỏi sau đây vẫn chưa có sự đồng thuận: tâm lý trị liệu pháp là gì, bệnh tâm thần là gì, kỹ thuật chữa trị ra sao, mục đích để làm gì, làm thế nào để chữa lành bệnh, hoặc phương pháp này hữu hiệu ra sao. Nói cách khác, bằng cách đặt những câu hỏi ấy, chúng ta đòi hỏi sự xác nhận vị trí của phương pháp này trong hệ thống tâm lý trị liệu của phương Tây.

Duyệt qua các định nghĩa về tâm lý trị liệu pháp ta sẽ thấy lộ rõ tính chất mơ hồ trong những nhiệm vụ mà ngành tâm lý trị liệu thường phải thực hiện. Tất cả các định nghĩa hình như chỉ đồng nhất được một điểm, đó là, tâm lý trị liệu pháp tìm cách đưa ra môt số giải pháp hay quyết định nào đó về những vấn đề xáo trộn tình cảm hay rối loạn nhân cách. Có rất nhiều ý kiến khác biệt về phương pháp, tiến trình thực hiện, mục tiêu và kết quả. Theo Whitaker và Malone (1953), tâm lý trị liệu pháp là:

Một quá trình quan hệ giữa hai cá nhân, mà trong đó một người sẽ là tác nhân thúc đẩy toàn bộ cơ cấu thích nghi của người kia bằng một phương cách nào đó để giúp cho người kia nâng cao mức độ thích nghi với cuộc sống ”.

Ðịnh nghĩa của Wolberg (1954) mang tính mô tả nhiều hơn:

“ Tâm lý trị liệu pháp là một hình thức chữa trị các chứng bệnh mang bản chất tình cảm, trong đó một chuyên gia tâm lý sẽ cố ý thiết lập quan hệ chuyên môn với bệnh nhân nhằm mục đích loại bỏ, làm thay đổi hay làm suy giảm những triệu chứng hiện có, hoặc điều hòa những kiểu ứng xử rối loạn, và khuyến khích sự nẩy sinh và phát triển nhân cách tích cực ”.

Những định nghĩa kiểu này mặc dù mang tính chất toàn diện và chuyên môn, vẫn không giúp chúng ta trả lời những câu hỏi nêu trên. Chúng đặt thêm nhiều vấn đề khác thay vì đưa ra lời giải đáp. Ðịnh nghĩa của Wolberg nói rằng nhà chuyên môn tâm lý thiết lập một mối quan hệ với người mắc bệnh tâm thần, nhưng lại hoàn toàn tránh né những câu hỏi như, phương pháp chữa trị là gì, mối quan hệ giữa nhà tâm lý và bệnh nhân là kiểu quan hệ như thế nào, tại sao mối quan hệ này lại có thể loại bỏ, làm thay đổi hay làm suy giảm những triệu chứng đau đớn. Năm 1935, sau khi đặt lại cùng những câu hỏi nêu trên về tâm lý trị liệu pháp, Geraldine Coster kết luận, “ Chúng ta kinh ngạc khi thấy rằng hình như không ai biết tại sao phân tích tâm lý lại mang tính chất trị liệu”. Và sau 35 năm - vào năm 1969 - vị bác sĩ chuyên khoa tâm thần Richard Chessick than thở về tình trạng đáng buồn của ngành tâm lý trị liệu như sau :

Tuy nhiên, khi kinh nghiệm lâm sàng được tích lũy ngày càng nhiều và kiến thức nhận được qua sách báo ngày càng sâu rộng thì nhà tâm lý trị liệu có đầu óc suy nghĩ bắt buộc phải đi đến kết luận đáng tiếc là: nói một cách đơn giản là không có sự đồng thuận nào về một số vấn đề then chốt cả”.

Ông còn nói thêm:” Chỉ vì trong tâm lý trị liêu, trường hợp chữa trị theo kiểu mò mẫm đã xảy ra nhiều hơn con số mà các nhà chuyên môn đã thừa nhận”. Toàn bộ ngành tâm lý trị liệu đầy rẫy cả chủ nghĩa truyền thống, giáo điều và những qui định cứng nhắc về mặt chuyên môn kỹ thuật.

Ðề tài về kỹ thuật và phương pháp của ngành tâm lý trị liệu quả thực là một khu rừng hoang, nơi mà các loại cây cỏ dược liệu trị bệnh mọc sát cánh với loài cỏ dại vô bổ, đôi khi còn độc hại nữa. Người ta sẽ cảm thấy lúng túng khó xử trước một loạt những phương pháp chữa trị gây ấn tượng mạnh như – phương pháp của Freud, phương pháp Freud-kiểu-mới, phương pháp của Jung, của Alder, cho đến phương pháp hiện tại nhằm huấn luyện tính nhạy cảm, phương pháp thành lập các nhóm gặp gỡ, và các cuộc chạy việt dã trần truồng. Những hệ thống chữa trị này đã phát triển một thứ ngôn từ riêng biệt của họ mang đặc tính mập mờ, khuôn sáo, và chủ trương tối nghĩa. Hình như các nhà tâm lý học trị liệu cố ý nói bằng thứ ngôn ngữ thật khó hiểu thay vì dùng thứ ngôn ngữ để giao tiếp.

Phần nhiều những gì đã được thực hiện trong ngành tâm lý trị liệu là một sinh hoạt cằn cỗi, nhằm mục đích tạo ra một bầu không khí khả kính đầy tính khoa học đối với những nhiệm vụ trước mắt. Những điều phiền toái của tinh thần khoa học ấy có khuynh hướng phô bày hình thức bề ngoài để cho mọi người thấy rằng tâm lý trị liệu pháp hiện đại có những mục đích rất rõ ràng và dứt khoát. Nhưng sự thật thì trái lại, chúng rời rạc, thô sơ và nông cạn, và đặt nền tảng trên một khái niệm hổn độn về mục đích của đời người.

Mặc dù tâm lý trị liệu pháp phương Tây rõ ràng là có tính phổ biến và thường đưa ra những lời tuyên bố cường điệu, ở phương Tây, người ta cũng chú ý đến thái độ của quần chúng ngày càng tỏ ra bất mãn và thất vọng trước những tiên đoán và kết quả của phương pháp này.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rất nhiều người phương Tây đang quay về với triết lý, tôn giáo và phương pháp thưc hành thiền định của Ðông phương. Họ tìm thấy một điều gì đó thật hùng hồn, đầy tính thuyết phục, một điều gì thật xác đáng trong thông điệp của Ðức Phật. Họ tìm thấy trong Phật giáo một con đường giải thoát đích thực khỏi những khổ đau hệ lụy của đời sống này. Ðức Phật đã thấy rõ việc chữa trị nỗi đau khổ của chúng sanh theo một phương pháp tâm lý độc đáo, bằng cách thông hiểu tinh thần, nội tâm và ý chí của con người. Ngài cũng đã chỉ rõ con đường diệt khổ. Con đường này, phương pháp này, kỹ thuật này được gọi là Con Ðường Trung Ðạo. Ngài đã chỉ rõ con đường mang lại lợi lạc cho đa số chúng sanh, mang lại hạnh phúc cho đa số chúng sanh, xuất phát từ lòng thương tưởng đối với thế gian này.

Trong bài thuyết pháp đầu tiên, Ðức Phật đã mô tả Con Ðường Trung Ðạo như sau:

Này các tỷ kheo, có hai cực đoan mà hàng xuất gia cần phải tránh. Thế nào là hai? Một mặt là tham đắm dục lạc, một lối sống thấp hèn và vô ích, không xứng đáng phẩm hạnh của bậc thánh, đó là con đường của thế gian; mặc khác là dấn thân theo đuổi lối tu khổ hạnh, như vậy là đau đớn và vô ích, không xứng đáng phẩm hạnh của bậc thánh.

Bằng cách từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ con đường trung đạo, là con đường đem lạị nhãn quan, đem lại tri kiến, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn.”

Con Ðường Trung Ðạo là nguyên lý căn bản nhất của Phật giáo. Ðây là con đường có thể dẫn dắt con người đến mục đích tối hậu của cuộc sống – là Niết Bàn. Tri kiến sáng suốt của Ðức Phật về việc chẩn đoán và chữa trị những căn bệnh của thế gian có thể thấy rõ trong Bốn Chân Lý Cao Thượng:

- Chân lý về sự khổ

- Chân lý về nguyên nhân của khổ.

- Chân lý về phương pháp diệt khổ.

- Chân lý về con đường tu tập đưa đến chấm đứt khổ.

Bốn Chân Lý Cao Thượng của Phật giáo là phương tiện nhờ đó con người nhận thức chân lý thứ nhất là Khổ đế, hiểu rõ chân lý thứ hai là Tập đế, thực hành chân lý thứ ba là Diệt đế, và thành tưụ chân lý thứ tư là Ðạo đế, để chứng đắc Niết Bàn. Vì vậy Bốn Chân Lý Cao Thượng được gọi là Ðạo, hay Thánh Ðạo: tiếng Pali là Magga hay Ariya-magga, và tiếng Sanscrit gọi là Mărga hay Ărya-mărga (Gard, 1961).

Chân lý Cao Thượng về con đường tu tập để đưa đến khổ diệt chính là Bát Thánh Ðạo. Bát Thánh Ðạo này, đem áp dụng vào điều kiện sống đương đại, là một toa thuốc chắc chắn đem lại một cuộc sống khéo thích nghi và hạnh phúc. Những lời giáo huấn của Bát Thánh Ðạo lập thành ba nền tảng của một cuộc sống lành mạnh về tinh thần, không những cho Phật tử, mà cho tất cả mọi người.

1. GIỚI / Tác phong đạo đức:

a. Chánh ngữ

b. Chánh nghiệp

c. Chánh mạng 

2. ÐỊNH / Kỷ cương tinh thần:

a. Chánh tinh tấn

b. Chánh niệm – thân - thọ - tâm -pháp

c. Chánh định – ly dục - xả niệm thanh tịnh – xả lạc - diệt thọ.

3. TUỆ / Phát triển trí tuệ: 

a. Chánh tư duy

b. Chánh tri kiến.

Con đường này là một lối sống mà mỗi người cần tuân theo, thực hành và phát huy. Tôi xin phép được nói rằng đây là vấn đề kỷ luật tự giác, là một phương pháp tự chữa trị về thân, khẩu, ý. Ðây là một phương thức để tự trau dồi bản thân. Ðây là toa thuốc để phòng ngừa những căn bệnh mãn tính của cuộc sống. Bạn có thể có đức tin hoặc không. Bạn có thể thích hoặc không thích cầu nguyện. Không cần có thờ phụng, không cần có nghi lễ. 

Con đường này là một lối sống - một quan điểm hành động. Nó không đòi hỏi chúng ta từ bỏ thế giới này. Nó chỉ đòi hỏi chúng ta thay đổi cách tiếp cận và có một thái độ khác đối với cuộc sống và môi trường. Như vậy, qua việc rèn luyện kỷ luật tự giác chặt chẽ, đây là con đường tự nhận thức và phát triển bản thân.

Trị liệu pháp “ chỉ thành công bao lâu mà nó giúp bệnh nhân giảm bớt lòng hoài nghi về sức khỏe thể chất của họ, giúp họ loại bỏ cảm giác lo ngại bất an giữa họ với người khác, và nuôi dưỡng niềm tin của họ vào triết lý tôn giáo mang tính chất thoa dịu tâm hồn” ( Masserman. 1971).

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/11/2018(Xem: 11337)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
20/11/2018(Xem: 5029)
Ngày nay, nhân loại tiến vào lãnh vực khoa học đời sống, khoa học vật chất và nhiều lãnh vực khác nhau bằng kiến thức và trí thông minh vượt bậc. Nâng cuộc sống lên tầm mức tiện nghi mà những thế hệ cha ông trước đây chưa được chứng kiến và hưởng thụ.
03/06/2018(Xem: 21928)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10626)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
14/03/2018(Xem: 10331)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 11464)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
03/03/2018(Xem: 23458)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
03/03/2018(Xem: 7931)
Có những vần thơ gắn liền với mỗi người từ thuở biết viết, biết đọc cho đến lúc trưởng thành, đi theo suốt cuộc đời, và cũng có thể…cho đến hơi thở cuối cùng. Những vần thơ hay những câu thơ của những thi sĩ nổi danh mà mình đã thuộc nằm lòng, đã ghi nhớ tận đáy sâu của ký ức, và bỗng một lúc nào đó, ở một tình huống nào đó, một nhân duyên nào đó, tự chúng hiện ra một cách tự nhiên trong dòng tư tưởng, sự nghĩ suy, và bộc ra thành lời nói như là của chính mình và đôi lúc, chỉ nhớ đến vần thơ, câu thơ đó mà cũng không hề nhớ đến tác giả là ai nữa ! Các vần thơ, các câu thơ ấy thực sự đã gắn liền với mình, với đời sống mình, đôi lúc còn được xem như là kim chỉ Nam để giúp mình phản ứng, cư xử trước mọi hoàn cảnh, vui hay buồn, tốt hay xấu đang xảy ra.
03/02/2018(Xem: 14451)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
22/01/2018(Xem: 7912)
Tôi nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng lần đầu tiên vào năm 1972. Chỉ ba ngày sau khi tôi đến Dharamsala ở miền bắc Ấn, ngài đã bắt đầu khóa thuyết giảng 16 ngày, bốn đến sáu tiếng mỗi ngày về những giai đoạn của con đường Giác Ngộ. Tôi đã bắt đầu học Tạng ngữ và thực tập Phật giáo Tây Tạng vào năm 1962, và những vị thầy của tôi, đặc biệt chỉ bảo về những sự phức tạp của các luận điển Tây Tạng, đã chuẩn bị cho tôi việc học hỏi với những học giả du già Tây Tạng tị nạn ở Ấn Độ. Nhưng thật tình mà nói, tôi không nghĩ rằng một vị tái sanh được chỉ định nắm quyền sinh ra ở đông bắc Tây Tạng năm 1935 và được nhìn nhận qua những sự tiên đoán, các giấc mộng, những biến cố cực kỳ phi thường, và các thử nghiệm như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vào lúc 2 tuổi – có thể đảm đương nhiệm vụ quan trọng như vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567