Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn minh Thuật toán (Enlightened Algorithms)

19/05/202317:22(Xem: 3589)
Văn minh Thuật toán (Enlightened Algorithms)

hoasen_10

Văn minh Thuật toán

 (Enlightened Algorithms)

 

Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.

 

Cuốn sách đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ đọc giả. Trong khi công chúng đón nhận cuốn sách với một phản ứng tích cực thì các học giả có chuyên môn về chủ đề liên quan đã kịch liệt phê phán cuốn sách này.

 

Một phần khám phá tôn giáo như một khối thống nhất của các nhóm người khác nhau. Tác giả Yuval Noah Harari thảo luận về nhiều tôn giáo lớn, và tác giả đã miêu tả về Phật giáo đã làm thu hút sự chú ý của tôi, liên quan đế một số thảo luận hiện tại của chúng ta về khoa học công nghệ.

 

“Ngài Siddhārtha Gautama (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), người Khai sáng Đạo Phật, quyết tâm tìm hiểu cội nguồn của nỗi thống khổ và cho đến tìm ra phương pháp hóa giải và giải thoát hoàn toàn. Ngài đã dành sáu năm để quán chiếu về bản chất, nguyên nhân và cách trị liệu cho những nỗi khổ niềm đau của con người. Cuối cùng, Ngài nhận ra rằng những nỗi khổ niềm đau của con người không phải do vận rủi, bất công xã hội, hay ý tưởng bất thường của thần thánh. Đúng hơn, những nỗi khổ niềm đau xuất phát từ ý nghĩ, lời nói và hành động (tam nghiệp) của mỗi con người tự gây ra.

 

Cái nhìn sâu sắc của Ngài Siddhārtha Gautama là bất kể tâm trí trải qua điều gì, nó thường phản ứng với sự ham muốn, và sự dục vọng luôn bao hàm sự không thỏa mãn. Khi tâm trí trải qua một điều gì đó khó chịu, nó khao khát được loại bỏ sự bực bội. Khi tâm trí trải nghiệm một điều gì đó dễ chịu, nó khát vọng rằng niềm vui đó sẽ vẫn còn và sẽ tăng cường”.

 

- Sapiens, Yuval Noah Harari

 

Đối chiếu này với báo chí đưa tin gần đây về Thuật toán đề xuất của YouTube. Trong loạt bài xã luận (Op-Ed) của báo The New York Times, bà Zeynep Tufekci, nhà xã hội học người Mỹ gốc Thổ Nhĩ Kỳ, Giáo sư tại Đại học Columbia, người phụ trách chuyên mục cho The New York Times đã đã trình bày chi tiết trải nghiệm của bà với công cụ đề xuất của YouTube. bà bắt đầu bằng cách xem video từ mỗi bên của phi chính trị và trong cả hai trường hợp, cuối cùng bà xem nội dung ngày càng cực đoan từ các đề xuất tự động phát.

 

“Thật hấp dẫn, tôi đã thử nghiệm với các chủ đề phi chính trị. Mô hình cơ bản tương tự xuất hiện. Video về việc ăn chay đã dẫn đến video về ăn chay. Video về chạy bộ đã dẫn đến video về ‘chạy siêu việt dã’ (một trong những môn thể thao lâu đời nhất và nay vẫn giữ một vị trí quan trọng trong những sự kiện thể thao quan trọng trên thế giới).

 

Có vẻ như các bạn chưa bao giờ đủ “lõi cứng” đối với Thuật toán đề xuất của YouTube. Nó quảng bá, đề xuất và phổ biến video theo cách có vẻ như liên tục tăng tiền cược. Với hàng tỷ người dùng, YouTube có thể là một trong những công cụ cực đoan hóa mạnh mẽ nhất của thế kỷ 21.

 

Điều này không phải vì một nhóm kỹ sư YouTube đang âm mưu đưa thế giới ra khỏi vách đá. Một lời giải thích có nhiều khả năng hơn liên quan đến mối liên hệ giữa trí tuệ nhân tạo và mô hình kinh doanh của Google. (YouTube thuộc sở hữu của Google). Đối với tất cả những lời hùng biện cao cả của mình, Google là một nhà môi giới quảng cáo, bán sự chú ý của chúng ta cho các công ty sẽ trả tiền cho nó. Mọi người ở lại YouTube càng lâu, Google càng kiếm được nhiều tiền.

 

Điều gì khiến mọi người dán mắt vào YouTube? Thuật toán của nó dường như đã kết luận rằng, mọi người bị thu hút bởi nội dung cực đoan hơn những gì họ bắt đầu – hoặc nội dung kích động nói chung”.

 

- YouTube, the Great Radicalizer, Zeynep Tufekci

 

Mặc dù mối quan hệ rõ ràng giữa lượng người xem và doanh thu chắc chắn tồn tại, nhưng thời gian gần đây Google đã phản bác các tuyên bố về mức độ ưu tiên, xem của công ty trong một bài báo trên The Guardian.

 

“YouTube nói với tôi rằng, hệ thống đề xuất của họ đã phát triển kể từ khi Chaslot (một cựu nhân viên của Google) làm việc tại công ty và giờ đây còn ‘tối ưu hóa cho thời gian xem’. Công ty cho biết vào năm 2016, họ đã bắt đầu tính đến ‘sự hài lòng’ của người dùng, chẳng hạn như sử dụng các cuộc khảo sát hoặc xem video nhận được bao nhiêu lượt ‘thích’ để ‘đảm bảo mọi người hài lòng với những gì họ đang xem’.”

 

- “Sách hư cấu vượt trội so với thực tế”: cách Thuật toán của YouTube bóp méo sự thật, Paul Lewis

 

Khi đọc những miêu tả này về YouTube, tôi đã bị ấn tượng bởi cách mà một câu châm ngôn hàng thế kỷ giao thoa với những vấn đề mà chúng ta hiện đang phải đối mặt. Liệu tìm kiếm của Thuật toán để tối đa hóa sự hài lòng có thúc đẩy nội dung ngày càng leo thang và trên thực tế mô hình đó có gắn liền với khát vọng và xu hướng, được quan sát từ lâu của con người không? Có thể các vấn đề Thuật toán thực sự được nhận thức là vấn đề của bản chất con người, hay nhiều khả năng chúng là các sản phẩm phụ đơn giản được đưa vào một cách nhân tạo?

 

Các Thuật toán thường được xem như các công thức toán học mang tính khách quan và logic. Và trong khi các Thuật toán thực sự được lập trình trong kết quả đầu ra của chúng, thì cốt lõi của chúng là sự thể hiện tư duy của con người. Chúng phản ánh sự hiểu biết của chúng ta về thế giới; điều này bao gồm một số đổi mới đáng kinh ngạc, nhưng nó cũng bao gồm những thành kiến của chúng ta và những khiếm khuyết của con người.

 

Như Ngài Siddhārtha Gautama (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), người Khai sáng Đạo Phật đã mặc định, nếu bản chất con người là khát vọng nhiều hơn, thì nếu không cân nhắc cẩn thận, ngược lại, các Thuật toán của chúng ta sẽ phản ánh điều này (cả do được lập trình bởi con người, và do được triển khai thay mặt cho các công ty thu lợi nhuận từ việc thỏa mãn con người). Nếu một Thuật toán tìm cách tối đa hóa sự hài lòng của người dùng (và như một sản phẩm phụ, tối đa hóa sự tương tác với sản phẩm của nó), có cách nào để dung hòa định nghĩa hài lòng này với định nghĩa Phật giáo về sự thỏa mãn từ việc từ bỏ tham ái không?

 

Trong một thế giới mà tỷ lệ gắn bó là thước đo thành công quan trọng, rất khó để thúc đẩy trước một thế giới mà các công ty “sự buông xả tâm tham ái chấp trước” ở khách hàng của họ hoặc trong các Thuật toán phục vụ những khách hàng đó. Tuy nhiên, nó có vẻ đáng làm nổi bật khái niệm này như một phương pháp tiềm năng để lồng ghép thiên về các Thuật toán.

 

Tôi không tuyên bố có bất kỳ câu trả lời nào về chủ đề này, nhưng tôi nhận thấy điểm giao nhau của những ý tưởng này đáng để khám phá. Nếu bạn có bất kỳ suy nghĩ nào về cách đạt được sự khai sáng về Thuật toán (hoặc liệu đó có phải là một mục tiêu đáng để phấn đấu hay không), tôi rất muốn lắng nghe chúng!

 

Tác giả: Giáo sư Rachel Stephens

Việt dịch: Thích Vân Phong

(Nguồn: RedMonk)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/11/2017(Xem: 8893)
Tứ Diệu Đế, 3 Chuyển 12 Hành ------------------------------------------------- Thich-Nu-Hang-Nhu Thích Nữ Hằng Như NGUỒN GỐC Dựa theo "Tiến Trình Tu Chứng và Thành Đạo của Đức Phật", chúng ta biết rằng sau khi Đức Phật từ bỏ pháp tu từ hai vị đạo sĩ Alàra Kàlama và Uddaka Ramàputta đã dạy Ngài bốn tầng Định Yoga là: "Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ", đồng thời từ bỏ luôn pháp tu khổ hạnh kéo dài 6 năm, là một pháp tu đã khiến Ngài suýt mất mạng mà không đạt được thượng trí và Niết Bàn. Sau đó Đức Phật tự chọn pháp Thở để tu tập.
01/11/2017(Xem: 8943)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21402)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
25/04/2017(Xem: 8692)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
23/03/2017(Xem: 9964)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
16/03/2017(Xem: 7705)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
16/03/2017(Xem: 7958)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
11/03/2017(Xem: 8072)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
22/12/2016(Xem: 24642)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/09/2016(Xem: 5659)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567