Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

25/09/201008:39(Xem: 3918)
Niết Bàn Theo Quan Điểm Bồ Tát Long Thọ

Từkhi đức Phật tuyên bố: “Sarvam Sùnyam” (Mọi vật đềukhông), từ sự gợi ý của ba pháp ấn: “Vô thường-Khổ-Vôngã” và sau đó các pháp được quan niệm như là “Mọivật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã,” thì vấnđề Niết-bàn (Nirvàịa), sau khi đức Thế tôn diệt độđã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại theoquan niện hiểu biết của họ về Niết-bàn, và cũng từ đómọi tranh luận về nó cũng như các phần giáo lý khác trởnên gay gắt.

Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiệnhữu, có (bhàva) hay không (abhàva), một đề tài làm nảy sanhra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt giữa Hữu bộhay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ (Sarvàsti-vàdin) và Kinhbộ còn gọi là Kinh lượng bộ (Sùtra-vàdin), giữa các nhàTiểu thừa và Đại thừa Không tông (Sùnyatà-vadin), và vấnđề này không còn dừng lại nơi đây mà còn tiến xa hơnnữa, trong việc hòa giải giữa hai quan điểm nói trên bằngcách gọp chúng lại rồi chấp nhận cả hai để có một cáiNiết-bàn hiện hữu theo sự hòa giải của họ, hay phủ nhậncả hai là chẳng phải có, chẳng phải không; đó là bốnthứ quan điểm của các bộ phái, nhưng theo ngài Nàgàrjuna(Long Thọ) thì đức Phật chưa từng nói ra một thứ Niết-bànnào như vậy, ngay cả khi Ngài còn tại thế, hay sau khi Ngàivào Niết-bàn, Ngài nói:

KhiNhư lai hiện hữu,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Và:

Sau khi Như Lai diệt,
Chẳngnói có cùng không;
Cũngchẳng nói có-không,
Haychẳng có, chẳng không.

Đối với Bồ tát Long Thọ, thì những quan niệm như vậycủa các bộ phái đối với Niết-bàn là hoàn toàn không chínhxác, và không hiểu được ý nghĩa “Sarvam Sùnyam” cho nêncó những quan niệm sai lầm như vậy về ý nghĩa Niết-bàn.Từ sự hiểu lầm này nên đã đi lệch con đường Trung đạocủa Ngài, và có những kiến thủ lệch lạc về các phápnói chung và Niết-bàn nói riêng. Vì con đường Trung đạocủa đức Phật không rơi vào Hữu hay Vô, không rơi vào vừaCó vừa Không, cũng không rơi vào chẳng phải có chẳng phảikhông, của những quan điểm thiên kiến tà chấp trói buộcnày, mà con đường Trung đạo là con đường giải thoát mọisự trói buộc khổ đau giữa hai bờ.

Đối với các nhà Tiểu thừa Hữu bộ, thứ nhất họ hiểu“Mọi vật đều Không” chỉ dành cho các pháp hữu vi màthôi còn các pháp vô vi như Niết-bàn, thì không bị lệ thuộcvào chúng, thứ hai “Mọi vật đều không” chỉ dành choNhơn không chứ không dành cho Pháp không, thứ ba “Mọi vậtkhông” thì không này là không trống rỗng, không có gì hết,không này là không đối lập lại với cái có. Do đó họmới có những cật vấn như vầy:

Nếu tất cả pháp không,
Thìkhông sanh, không diệt;
Làmsao có đoạn-diệt,
Đểgọi là Niết bàn ?

Ở trên là cách tiếp thu “Mọi vật đều không” và theođó các nhà Tiểu thừa đặt vấn đề là, nếu tất cả cácpháp đều không, không có gì hết, thì sẽ không có hiệntượng sanh diệt, khi đã không có hiện tượng sanh diệt thìmọi vấn đề được đặt ra theo sau đó, chúng không hiệnhữu. Vậy thì đoạn cái gì, diệt cái gì để có thể gọilà Niết bàn? Cho nên theo họ, tất cả các pháp không phảikhông, mà các pháp phải có thật. Vì các pháp chẳng phảikhông, nên nó đoạn trừ được tất cả mọi phiền não nghiệphoặc, tiêu diệt được năm ấm để đưa đến Niếtbàn. Để trả lời cho nạn vấn này, ngài Long Thọ cũng đứngtrên lập trường của họ, hỏi nghịch trở lại:

Nếu các pháp là có,
Thờikhông sanh không diệt;
Đoạngì, diệt chỗ nào,
Màgọi là Niết bàn ?

Vì các nhà Tiểu thừa không hiểu thấu được chỗ sâu xacủa pháp Không (Dharmasùnyatà), nên đã nhầm lẫn, cho rằngpháp Không là pháp trống rỗng, hư vô, không có gì hết; phápkhông này đối lại pháp có của họ, nên sanh ra kiến giảisai lầm về các pháp, và từ đó đưa ra nạn vấn như trên.Cũng đứng trên lập trường kiến giải sai lầm này, ngàiđặt ngược lại vấn đề rằng: Nếu các pháp chẳng phảikhông tức là có, và vì xưa nay chúng luôn luôn hiệnhữu, chúng luôn luôn là có nên chúng sẽ không có sanh, khôngcó diệt; vậy khi đã không sanh không diệt thì làm saochúng có chỗ để đoạn có chỗ để diệt mà gọi là Niếtbàn? Ở đây hai cửa hữu-vô (Bhàva-Abhàva) không phải làcửa đi đến Niết-bàn, mà Niết-bàn phải được gọi là:

Không được, cũng không đến,
Chẳngđoạn, cũng chẳng thường;
Chẳngsanh, cũng chẳng diệt,
Đógọi là Niết bàn.

Ở đây, mọi sự hiện hữu nô lệ, lệ thuộc, chấp thủthiên kiến nhị nguyên như : đắc-thất, đến-đi, đoạn-thường,sanh-diệt v.v... đều bị phủ định. Trong phủ định mớixem ra như là mang cả hai tính chất vừa đập phá vừa xâydựng. Nhưng ở đây, nếu được xác định như vậy,thì lập tức rơi vào đoạn-thường (Ucchada-Nitya) ngay. Do đó,mọi xác định đều cũng bị phủ nhận, để từ đó mởra một con đường rộng thênh thang không bị trói buộc, đólà con đường Trung đạo đi đến Niết-bàn. Nghĩa là sau khichúng ta thực hiện vô sự đối với các pháp, thì tự nólà con đường, tự nó là Niết-bàn không phải một cũng khôngphải khác. Ở đây, hành-quả không phải là chỗ để đạtđược, không phải là chỗ để đến, không phải là chỗđể đoạn trừ, chẳng có pháp để phân biệt; chẳngsanh chẳng diệt, cho nên Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phảichẳng không, chẳng chấp thủ tất cả các pháp, bên trongtịch diệt gọi đó là Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả mọihiện tượng hiện hữu của vạn vật để mắt chúng ta nhậnthấy, luôn luôn ở trong trạng thái sanh diệt biến hoại,chỉ là tướng lão tử bị vô thường sanh diệt chi phốinên không phải là Niết-bàn. Nếu có một Niết-bàn nào đểmắt chúng ta nhận thấy là có thì Niết-bàn ấy cũng chỉlà tướng lão tử, mà tướng lão tử không phải là tướngNiết-bàn, cho nên Niết-bàn không gọi là có được,vì nó xa lìa tướng lão tử.

Hơn nữa, nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hayNiết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữuvi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng tháibiến diệt không thật có. Vì sao? Vì chúng hiện hữu cóđược là nhờ vào các duyên mà thành. Do đó, tất cả mọipháp đang hiện hữu giữa chúng ta không có bất cứ một phápnào gọi là hữu vi cả, cho dù là pháp thường mà giảgọi là vô vi dùng lý để tìm hiểu nó. Pháp vô thườngcòn không có, huống chi là pháp thường không thể thấy,không thể đạt được. Lại nữa, theo Ngài:

Nếu Niết bàn là có,
Saogọi không chấp thủ;
Vô-hữukhông từ chấp (thủ),
Màgọi là có pháp.

Nếu thật sự Niết bàn là thật có thì tại sao trong kinh,đức Phật lại bảo Niết bàn là không chấp thủ (vô thọ,hay Vô dư y: nirupadhizewa)? Đã là không chấp thủ thì cho dùpháp đó là pháp gì đi nữa cũng không thể hiện hữu ởđây được. Nếu có pháp nào để hiện hữu được thì ởđó không phải là chỗ vô thọ, vì theo kinh thì Niết-bànlà vô thọ, nên không có pháp không chấp thủ ở đây. VậyNiết-bàn chẳng phải có.

Nạn vấn :
Nếuhữu không phải là Niết-bàn, vậy thì vô là Niết-bàn?

Ngài bảo :

Hữu chẳng phải Niết-bàn,
Huốngchi đối với Vô;
Niết-bànkhông có Hữu,
Nơinào sẽ có Vô ?

Quá rõ ràng như bài kệ trên đã bảo Hữu-Vô không từ chấpthủ mà có. Vậy thì tại sao ở đây lại đặt vấn đềVô trở lại đối với Niết-bàn được ? Vì sao ? Vì nhờvào hữu mà có vô. Nếu không có hữu thì làm sao có vô được.Nếu nói trước có nay không, thì vật này là vô. Nhưng Niết-bànchẳng phải vậy, vì không có pháp có nào lại là không được,cho nên vô cũng không thể tạo nên Niết-bàn được.

Lại nữa, thử đặt vô là Niết-bàn đi. Nhưng ở đây, chúngta không giải quyết được vấn đề không chấp thủ là Niết-bànnhư đức Phật đã dạy trong kinh. Nếu vô là Niết-bàn thìđức Phật đã không nói không chấp thủ là Niết-bàn nhưkinh đã dạy. Vì sao ? Vì không có pháp không chấp thủ nàogọi là pháp vô cả, cho nên Niết-bàn không thể gọi là vôđược.

Hơn nữa,

Như trong kinh Phật bảo:
Đoạncó, đoạn chẳng có;
Biếtđó là Niết-bàn,
Chẳngcó cũng chẳng không.

Chính đức Phật đã dạy nếu đoạn trừ cả hai : Cóvà chẳng có này thì Niết-bàn sẽ hiện hữu. Vì sao ? VìCó là chỉ cho tam hữu (tam giới) và chẳng có chỉ cho tamhữu đã được đoạn diệt. Nếu đoạn trừ cả hai chướngngại hữu-vô này, thì biết rằng Niết-bàn chẳng phải có(phi hữu) cũng chẳng phải không (phi vô), đó mới gọi làNiết-bàn.

Nạn vấn :

Nếu hữu hay vô không phải Niết bàn thì bây giờ hợp cảhữu và vô lại, có phải là Niết bàn không ? Ngài bảo :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Hữu-vôlà giải thoát,
Thờiđiều này chẳng đúng.

Ở phần trên hữu-vô đã bị phủ định, nhưng người nạnvấn vẫn đem chúng đặt vấn đề trở lại. Ở đây, lạinảy sanh một phi lý khác nữa, đó là việc hợp nhất giữahữu-vô lại để có một cái Niết-bàn theo quan điểm củahọ. Nhưng theo ngài, nếu hợp cả hữu và vô lại là Niết-bàn,tức là hợp cả hữu và vô lại là giải thoát, điều nàychỉ thông cho Niết-bàn và giải thoát thôi. Còn ngay chínhnó, hữu và vô, trong một vế mà tự mâu thuẫn nhau với chínhmình, vậy thì làm sao thông với vế thứ hai được. Vì sao? Vì hữu và vô chúng tương phản nhau, làm sao hiện diệncùng lúc cùng một chỗ được. Do đó, hợp cả hai hữu vàvô lại là Niết-bàn thì không đúng. Lại nữa :

Đối hữu-vô, nếu bảo:
Hợplại là Niết-bàn;
Niết-bànlà chỗ chấp,
Cảhai từ chấp sanh.

Ở trên, tự chúng đã không thông rồi. Nếu ở đây mà hợpchúng lại là Niết-bàn có thể chấp nhận đi, với điềukiện tự chúng không mâu thuẫn nhau; nhưng ở đây tựthân Niết-bàn không phải là chỗ chấp thủ, trong khi đóhữu-vô từ chỗ chấp thủ sanh ra, cùng nhờ vào nhau mà hiệnhữu. Vậy thì cả hai vế mâu thuẫn và không thông nhau được,do đó chúng không phải là Niết-bàn.

Lại nữa, Niết bàn là Vô vi, nó vượt lên trên hữu-vôcủa hữu vi. Trong khi hữu-vô hợp lại mà thành thì khôngthoát khỏi hữu vi, nghĩa là chúng thuộc pháp hữu vi. Nhưngpháp hữu vi là pháp sanh diệt như đức Phật đã dạy, trongkhi pháp vô vi là pháp không sinh diệt. Vậy thì làm sao bảohữu-vô hợp lại thành là Niết-bàn ?

Hay,

Cộng hai việc hữu-vô
Làmsao là Niết-bàn ?
Haiviệc không cùng chỗ
Nhưsáng tối không hợp.

Ở trên, hợp hai việc có-không đã không thành là một vấnđề. Ở đây, lại là một vấn đề khác nữa trong việccộng hai khái niệm này lại để có Niết-bàn hiện hữu,thì làm sao chúng ta có thể làm được. Vì sao? Vì có-khôngchúng tự tương phản mâu thuẫn nhau nên không thể cùng hiệnhữu một nơi được. Như ánh sáng và bóng tối, không thểnào cùng hiện hữu cùng một lúc được. Khi nàoCó hiện hữu thì Không sẽ không hiện hữu, ngược lại khinào Không hiện hữu thì có sẽ không hiện hữu. Vậy thìlàm sao có-không cùng hợp nhau lại mà gọi là Niết-bàn ?

Lại nạn vấn :

Nếu Có-Không cùng hợp nhau lại không là Niết-bàn, thì bâygiờ chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn đượckhông?

Ngài bảo :

Nếu chẳng có chẳng không,

Gọiđó là Niết-bàn;

Chẳngcó chẳng không này,

Làmsao mà phân biệt ?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 13888)
Trong chương trình cải cách hệ thống tín chỉ của Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh và chương trình cải cách của Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, . . .
08/04/2013(Xem: 2091)
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam trên dưới hai ngàn năm. Giáo lý đạo Phật đã ăn sâu, hội nhập vào các mặt sinh hoạt trong đời sống nhân dân từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội. Trải qua nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần Đạo Phật có lúc được xem là quốc giáo của dân tộc.
08/04/2013(Xem: 15815)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
08/04/2013(Xem: 13584)
Trimsika là luận văn cuối cùng của Bồ tát Vasubandhu. Bộ luận nầy gồm có ba mươi bài tụng, nên được dịch sang tiếng Trung Hoa là "Tam Thập Tụng", đây chính là nghĩa của Trimsika. Ngài Huyền Trang Pháp sư khi dịch nó ra Hán văn có thêm vào hai chữ "Duy Thức", gọi là "Duy Thức Tam Thập Tụng"; vì trong ba mươi bài tụng ấy Bồ tát Vasubandhu đã tóm thâu toàn vẹn tinh ba của Duy Thức Học.
08/04/2013(Xem: 8674)
Bản dịch quyển "The Buddha and His Teachings -- Đức Phật và Phật Pháp" được tu chỉnh và bổ túc lần thứ ba theo bản Anh ngữ cuối cùng của Ngài Narada, xuất bản ...
08/04/2013(Xem: 12780)
Một Tôn Giáo Hiện Đại (nguyên tác Anh ngữ: "What is this Religion? - Tôn giáo này là gì ?", ấn hành tại Đài Loan vào năm 1992), là một trong mấy mươi tác phẩm...
05/04/2013(Xem: 9758)
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1, đó là "sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác gia, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nươc ta cho đến thế kỷ XX".
04/04/2013(Xem: 1069)
Trong cuộc sống hằng ngày, có ai tránh khỏi những hoàn cảnh trái ý nghịch lòng, khiến ta phải khổ đau, phiền não. Ðó là vì tâm yếu đuối của chúng ta không thể xem chướng ngại như cơ hội để ta rèn giới hạnh ...
04/04/2013(Xem: 11860)
Trong Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc, nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567