Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vũ Trụ

25/04/201720:19(Xem: 8619)
Vũ Trụ


vu tru

Vũ trụ


 

Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học - và có thể sống trong các chiều không gian khác. Họ có thể hơn chúng ta, hay kém chúng ta xa. Tại sao địa cầu có thể là hành tinh duy nhất có sự sống? Địa cầu so ra chỉ là một mảy bụi trong không gian bao la. Ngài James Jeans, nhà khoa học gia vũ trụ lừng lẫy, ước lượng vũ trụ thật sự  là khoảng một tỷ lần lớn hơn khoảng không gian mà kính viễn vọng của chúng ta có thể thấy được. Trong quyển sách "Vũ trụ bí mật" (The Mysterious Universe) ông nói tổng số các vũ trụ hiện hữu nhiều như tổng số cát trên tất cả bờ biển của địa cầu. Trong một tổng thể vũ trụ như thế, địa cầu chỉ như một phần triệu của hạt cát. Ánh sáng của mặt trời chỉ cần 8 phút để chiếu tới quả đất, trong khi nó cần khoảng 100 tỷ năm để có thể vượt qua chiều rộng của vũ trụ! Với một vũ trụ bao la như thế, khái niệm về một hay vô số hệ thống thế giới có sự sống là điều rất có thể. Với những khám phá mới của khoa học, chúng ta ngày càng thấy rõ sự giới hạn của thế giới chúng ta đang sống. Thế giới của chúng ta bị giới hạn bởi những gì mà giác quan chúng ta cảm nhận được. Như mắt chúng ta chỉ có thể thấy được một dãi tần số hạn hẹp, tai chúng ta cũng thế. Với sự phát minh ra sóng cao tần, tia X, sóng TV và sóng vi ba, v.v...chúng ta ngày nay có thể ý thức về khả năng nhận thức hạn hẹp của chúng ta do giới hạn của giác quan loài người. Chúng ta đang nhìn vũ trụ quả khe hẹp của giác quan, giống như đứa trẻ nhìn thế giới bên ngoài qua khe hẹp của khung cửa sổ. Ý thức về khả năng hạn hẹp của giác quan chứng minh rằng có thể có những hệ thống thế giới khác riêng biệt hay song hành (dung thông) với thế giới chúng ta đang sống - mà chúng ta không thể cảm nhận được.

 

Về tính chất của vũ trụ, đức Phật nói rằng chúng ta không thể quan niệm được sự khởi đầu hay sự tận cùng của vũ trụ. Phật tử không tin là thế giới có thể đột nhiên chấm dứt với sự hủy diệt hoàn toàn. Cũng không có sự hủy diệt hoàn toàn và tức thời của vũ trụ. Khi một phần của vũ trụ biến mất, các phần khác vẫn tồn tại. Phần nầy biến mất thì phần kia hiện ra do sự tái hợp của vật chất bị phân tán. Sự tái hợp nầy do sự tích tụ của các phân tử, nguyên tử, hơi và năng lượng dưới sự tác động của năng lượng vũ trụ và các lực hấp dẫn. Từ đó các hệ thống thế giới mới sẽ hiện ra và tồn tại trong một khoảng thời gian. Đây là chu kì tự nhiên của năng lượng vũ trụ. Đó là lí do mà đức Phật nói ta không thể quan niệm được sự bắt đầu và sự tận cùng của vũ trụ. Ngài chỉ nói tới vấn đề nầy trong một số trường hợp đặc biệt. Trong khi giảng giải, Ngài phải để tâm tới khả nămg tiếp thu của người hỏi. Và Ngài không quan tâm tới những phỏng đoán siêu hình không có lợi ích thiết thực cho sự thăng tiến tâm linh. Phật tử không chấp nhận quan điểm của một số người cho rằng Thượng Đế sẽ huỷ diệt thế giới khi số người bất tín trở nên đông đão và sự đồi trụy của nhân loại trở nên tồi tệ. Với sự tin tưởng nầy. ta có thể đặt câu hỏi là vị Thượng Đế đó, thay vì huỷ diệt thế giới, tại sao không dùng năng lực của Ngài để thay đổi loài người và quét sạch sư đồi trụy trong tâm thức của nhân loại? Dầu Thượng Đế có ra tay huỷ diệt hay không, sẽ có ngày tận cùng của bất cứ sự vật nào hiện hữu, kể cả thế giới của chúng ta. Theo lời đức Phật, thế giới nằm trong chu kì Thành, Trụ, Hoại và Không của vật chất và tâm thức - tái diễn không ngừng. Trong sự phân tích cuối cùng, đức Phật đã siêu việt các khám phá của khoa học tân thời, dầu cao siêu và đáng ca ngợi đến đâu.  Mục tiêu của khoa học là giúp con người làm chủ thiên nhiên để có thể sống trong tiện nghi và an toàn. Tuy nhiên đức Phật nói rằng sự tích tụ kiến thức (về khoa học) không bao giờ có thể giải phóng con người khỏi sự đau khổ của hiện hữu. Con người phải nỗ lực phấn đấu để tiến tới sự hiểu biết thật sự về bản chất (Phật tánh) của mình và tinh chất vô thường của vũ trụ. Muốn thật sự giải phóng mình, con người phải cố gắng chế ngự bản tâm, diệt trừ sự khao khát khoái lạc giác quan. Và khi con người hiểu ra rằng vũ trụ mà họ đang cố gắng chế ngự là vô thường, họ thấy mình như anh chàng Don Quixote muốn chống lại cối xoay gió. Với chánh kiến có được, con người sẽ dùng thì giờ và năng lực để chế ngự bản tâm và diệt trừ ảo tưởng về bản ngã.

 

“Universe”, Seeker’s Glossary of Buddhism, p. 515-517, Thích Phước Thiệt dịch





Ý kiến bạn đọc
28/06/201713:34
Khách
hay qua????????????
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 8795)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21226)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
23/03/2017(Xem: 9846)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
16/03/2017(Xem: 7613)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
16/03/2017(Xem: 7852)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
11/03/2017(Xem: 7962)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
22/12/2016(Xem: 24349)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/09/2016(Xem: 5595)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau.
30/07/2016(Xem: 13893)
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957
30/04/2016(Xem: 15520)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567