Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 4: Phụ Lục Thiền uyển tập anh bạt hậu

05/04/201315:15(Xem: 7003)
Phần 4: Phụ Lục Thiền uyển tập anh bạt hậu
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

Phần 4: Phụ Lục Thiền Uyển Tập Anh Bạt Hậu

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


Có lúc nghe Phật vốn vô hình, chân kinh không quyển, ra đi không dấu, bay lên không vết. Nhưng pháp nhờ có dạng hình, phép tắc mở ra, tông phái mới liên tục, thiền môn mới có ý chỉ. Trên từ vô thủy, dưới tới vô chung, Phật Tổ mênh mông, vào ra chẳng dứt, lặng chiếu mười phương, vị lai quá khứ, Chúng sanh mọi chỗ lăn quay nơi chốn hữu vi, lớp lớp ngờ mê, đề hồ trở thành độc dược, nghiệp nghiệp nối vây, thì cỏ trắng trở thành cỏ dại.

Do vì một đại sự nhân duyên, chứng đủ ba không, rộng mở thể dụng, nên đức Phật xuất hiện ở đời, muốn khiến chúng sinh có bốn tri kiến. Một kệ nhờ thiêng mà vườn thiền là đầu mối, tập trung một trăm tám mươi anh tú. Tây phương hai mươi tám tổ, Đông Độ sáu hiền, cũng không có con đường khác. Đạt Mạ tứ mục nhìn nhau, Thích Ca ngũ nhãn thường sáng, Chuyết Công ấn Phật tâm tông, diễn khai kinh sách. Đèn đèn nối nhau.

Chúng sinh mê hoặc, tùy thuận quân ma ngoại đạo, nghiệp nghiệp nối thân, gọi là Duyên giác Thanh văn, chân như tánh hải, mà ba độc không trừ. Tuy là chẳng có chẳng không, giết mầm giống Phật, nói dối nói thêu, dụ dỗ mọi người, bảo Phật đã diệt độ niết bàn. Chúng thực như kẻ mù mà nói là không có mặt trời mặt trăng.

Thời tiết nhân duyên đã tới, thì quả vị viên thành. Trí Phật là trí sáng, là trí tự nhiên. An Nam tứ khí do năm hành của trời đất mà sanh. Sông Đức núi Từ, đất Tiên Du sản xuất ra Phật, các vị Bồ tát hộ vệ, cửa ngỏ thần phù, đồng tử hải chu bắc ngọc. Đạo sư rồng càn quậy cấn (đông bắc), kim la bàn nhắm dấu khôn (tây nam) ở Đông Sơn. Khảm (bắc) chẳng có năm Ly (nam).

Tượng Phật như trời trăng, đề hồ đông sửa. Sắc mầu nhiệm tròn đủ kim thân, thân thường tại hướng về, chẳng đi chẳng tới, rõ thấu mọi tầng giai. Bánh xe pháp chuyên chở pháp Phật, có khai thị, có ngộ nhập, vô cùng vô tận, lấy vô niệm làm tông chỉ, thường có thường trụ, soi khắp cả hữu tình vô tình, đều tròn chủng trí.

Cúi mong các vị đàn na trong hội kinh chủ, cõi pháp sạch lòng, xuất lấy của nhà, gánh vác việc chép in sách Tổ Như lai, như phúc trước ra đời, cúng dường in cho mười phương để làm hưng thịnh Tam bảo. Có những tên tuổi xin liệt khai như sau:
  1. Xã Trung Mâu, kinh chủ: Nguyễn thị Thạng hiệu Diệu Năng, Nguyễn thị Ngọc Súy hiệu Diệu Tài, Nguyễn Công Kính tự Tính Trác, Ký Dự tự Đức Tôn, hiển khảo tự Trung Túc.
  2. Kinh chủ Nguyễn Công Vận tự Tính Chuyên, vợ Nguyễn Thị Thu hiệu Diệu Phóng, cháu Nguyễn Công Kỳ tự Tính Dị, thân mẫu hiệu Diệu Duyệt, hiệu Diệu Ức.
  3. Xã Tử Nê, hội chủ: Trần Tuấn Đức tự Tính Trì, Trần thị Sam hiệu Diệu Bạch, con trai Trần Tuấn Gia tự Tính Đạo, vợ Nguyễn Thị Đợi, thân mẫu hiệu Diệu Côn.
  4. Hội chủ Trần Tuấn Vượng tự Tính Duệ, vợ Nguyễn Thị Vang hiệu Diệu Chỉnh.
  5. Hội chủ Đoàn Đình Khôi tự Tính Pháp, vợ Nguyễn Thị Minh hiệu Diệu Quang.
  6. Hội chủ Trần văn Thạch tự Tính Kim, vợ Trần Thị Cẩm hiệu Diệu Quyên, cháu Trần văn Thát tự Tính Xan, Trần văn Thản.
  7. Hội chủ Võ Thị Tín hiệu Diệu Thọ, con gái Trần Thị Phó hiệu Diệu Chúc, Lê Đức.
  8. Hội chủ Trần văn Bãi tự Tính Trị, vợ Trần Thị Tồn.
  9. Hội chủ Trần Đăng Minh tự Tính Thường, vợ Phạm Thị Phiên hiệu Diệu Lai, cháu Trần Đăng Huyên tự Tính Đắc, Thái Thủy hiệu Diệu Thông.
  10. Hội chủ Xã Đông Sơn: hiệu Diệu Thuận, hiệu Diệu Hòa, hiệu Diệu Duyên, hiệu Diệu Tập, hiệu Diệu Chiếu.
  11. Hội chủ Nguyễn Thị Kế hiệu Diệu Tịnh, Nguyễn Hạo tự Tính Khoan, hiệu Mẫn Đạt, vợ Nguyễn Thị Lãng, Nguyễn Thị Ly hiệu Diệu Trân, Nguyễn Sỹ Chinh, con trai Nguyễn Sỹ Giai, Nguyễn Thị Nhặt hiệu Diệu Châu.
  12. Xã Lễ xuyên, hội chủ: Nguyễn Tánh Tinh tự Tính Liễn, vợ Nguyễn Thị Lụy hiệu Diệu Đà.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 13784)
Trong chương trình cải cách hệ thống tín chỉ của Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh và chương trình cải cách của Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, . . .
08/04/2013(Xem: 2000)
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam trên dưới hai ngàn năm. Giáo lý đạo Phật đã ăn sâu, hội nhập vào các mặt sinh hoạt trong đời sống nhân dân từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội. Trải qua nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần Đạo Phật có lúc được xem là quốc giáo của dân tộc.
08/04/2013(Xem: 15232)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
08/04/2013(Xem: 13347)
Trimsika là luận văn cuối cùng của Bồ tát Vasubandhu. Bộ luận nầy gồm có ba mươi bài tụng, nên được dịch sang tiếng Trung Hoa là "Tam Thập Tụng", đây chính là nghĩa của Trimsika. Ngài Huyền Trang Pháp sư khi dịch nó ra Hán văn có thêm vào hai chữ "Duy Thức", gọi là "Duy Thức Tam Thập Tụng"; vì trong ba mươi bài tụng ấy Bồ tát Vasubandhu đã tóm thâu toàn vẹn tinh ba của Duy Thức Học.
08/04/2013(Xem: 8343)
Bản dịch quyển "The Buddha and His Teachings -- Đức Phật và Phật Pháp" được tu chỉnh và bổ túc lần thứ ba theo bản Anh ngữ cuối cùng của Ngài Narada, xuất bản ...
08/04/2013(Xem: 12516)
Một Tôn Giáo Hiện Đại (nguyên tác Anh ngữ: "What is this Religion? - Tôn giáo này là gì ?", ấn hành tại Đài Loan vào năm 1992), là một trong mấy mươi tác phẩm...
05/04/2013(Xem: 9608)
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam 3 dành trọn quyển cho việc in lại tác phẩm Thiền uyển tập anh cùng phần nghiên cứu, bản dịch và chú thích của chúng tôi, mà trước đây đã từng được xuất bản. Việc dành tập 3 cho Thiền uyển tập anh này tất nhiên không đáp ứng hoàn toàn tiêu chí sắp xếp do chúng tôi đã đề ra trong Tổng tập 1, đó là "sắp xếp các tác phẩm Văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các tác gia, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nươc ta cho đến thế kỷ XX".
04/04/2013(Xem: 876)
Trong cuộc sống hằng ngày, có ai tránh khỏi những hoàn cảnh trái ý nghịch lòng, khiến ta phải khổ đau, phiền não. Ðó là vì tâm yếu đuối của chúng ta không thể xem chướng ngại như cơ hội để ta rèn giới hạnh ...
04/04/2013(Xem: 11631)
Trong Tổng tập 2 này, để hiểu Pháp kính kinh tự của Khương Tăng Hội, chúng tôi cho dịch luôn bản Pháp kính kinh của Kỵ đô úy An Huyền. Đây là một trong những bản kinh xưa nhất của nền dịch thuật Phật giáo Trung Quốc, nên đầy dẫy những văn cú khó khăn của giai đoạn cổ dịch. Vì thế trong khi dịch, chúng tôi có tham khảo bản dịch của Trúc Pháp Hộ đối với kinh này, biết dưới tên Uất Ca La Việt vấn Bồ tát hạnh kinh (ĐTK 323).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567