Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Vấn đề tên gọi

05/04/201313:04(Xem: 7227)
II. Vấn đề tên gọi
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

II. Vấn Đề Tên Gọi

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


Ba truyền bản hiện lưu hành, đấy là truyền bản đời Lê I, đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, mang những tên gọi khác nhau về Thiền uyển tập anh. Truyền bản đời Nguyễn thì gọi Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục ở tờ 1a1, hay Đại nam thiền uyển truyền đăng ở tờ 65a10 và Thiền uyển Truyền đăng lục ở gáy từ tờ 1 đến tờ 65. Điều này không có nghĩa người đứng in truyền bản đời Nguyễn, tức An Thiền không biết đến tên Thiền uyển tập anh đâu. Chính Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a4, một tác phẩm của Thiền, đã liệt Thiền uyển tập anh lục một (quyển) giữa những bản gỗ tàng trữ tại các chùa chiền miền Bắc nước ta vào thế kỷ thứ XIX. Như vậy, “bản gỗ cũ chùa Tiêu Sơn”, mà Thiền dùng để in ra quyển thượng của bộ Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, cứ vào ghi chép vừa dẫn của Đạo giáo nguyên lưu, phải có tên là Thiền uyển tập anh lục. Và chính lời tựa San khắc truyền đăng thủ Trần gia bản tờ 1b4-5, Thiền đã nói thẳng ra tên sách mình dùng cho việc in ra quyển thượng đó là Thiền uyển tập anh, bởi vì Thiền viết:
“Kịp đến nước ta thì xưa có Thiền uyển làm lục, Tập anh làm tên, ghi lấy cao tăng thạc đức của ba triều trình sơ nét chính”. Do thế, mặc dù truyền bản đời Nguyễn ngày nay xuất hiện dưới tên Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, hay Đại nam thiền uyển truyền đăng, hay Thiền uyển Truyền đăng lục, ta biết chắc chắn là tự nguyên ủy nó vẫn có tên Thiền uyển tập anh.

Về truyền bản đời Lê I và Lê II, trong bảy lần nó nhắc tới tên sách ở những tờ 1a1, 4a1, 26a1, 44a1, 61a1, 71b1, và 72b11 thì sáu lần là đã có tên Thiền uyển tập anh. Chỉ trừ một lần ở tờ 4a1, nó thêm hai chữ “ngữ lục” ở sau thành Thiền uyển tập anh ngữ lục. Bản chất của Thiền uyển tập anh, tuy có chứa đựng ngữ lục, nhưng không phải là một tác phẩm thuần túy thuộc loại ngữ lục. Thực tế mà nói, nó có những truyện không chứa đựng một ngữ lục nào hết. Truyện Pháp Thuận, truyện Ma Ha thuộc dòng thiền Pháp Vân là những thí dụ. Có lẽ vì nhận ra sự trạng đó, nên người hiệu đính và viết tựa cho bản in năm 1715 đã không ngần ngại nêu ngay cái tên Thiền uyển tập anh, mà giải thích ý nghĩa và đã không một lời đề cập xa gần gì tới ngữ lục cả. Hơn nữa, cứ vào số lần xuất hiện của nó thì Thiền uyển tập anh chắc chắn là tên của tác phẩm từ nguyên ủy, nhất là khi ta biết chúng là khởi đầu cho những quyển khác nhau theo truyền bản sáu quyển. Chúng tôi vì vậy nghĩ rằng chữ “ngữ lục” là một thêm thắt vào thời Lê dưới ảnh hưởng của quan niệm, theo đó thì mỗi khi nói đến tác phẩm của các vị thiền sư, người ta phải đề cập tới ngữ lục. Và tên nguyên ủy của tác phẩm chúng ta nghiên cứu đây là Thiền uyển tập anh.

Tên đó từ thế kỷ thứ XV đã được Nguyễn Văn Chất (1422-?) dẫn ra trong phần Tục tập của Việt điện u linh tập tờ 42, mà sau này một “Nho sĩ họ Đoàn” thuộc thế kỷ thứ XVI đã sao lại vào trong quyển thứ ba của Lĩnh nam chích quái truyện tờ 115. Qua thế kỷ thứ XVIII, ngoài bản in năm 1715, Lê Quý Đôn là người sử dụng nhiều nhất Thiền uyển tập anh và đã gọi nó bằng chính cái tên đó trong Đại việt thông sử cũng như trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b8. Đến Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần Văn tịch chí chỉ ghi lại Thiền uyển tập thôi, trong khi “bản gỗ cũ của chùa Tiêu Sơn” cũng như Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a4 đều chép tên Thiền uyển tập anh lục. Cái tên Thiền uyển tập anh có một lai lịch xa xưa và thống nhất như thế. Do đó, chúng tôi đề nghị chúng ta gọi tên tác phẩm mang những đề danh khác nhau trên bằng cái tên Thiền uyển tập anh thống nhất vừa nêu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 6029)
Thuyết vô thần[1], hay chủ nghĩa vô thần, là một quan điểm khẳng định rằng thần thánh không tồn tại, hoặc phủ nhận “đức tin”[2] vào thần thánh. Từ “vô thần” còn được định nghĩa một cách rộng hơn là sự không có đức tin vào thần thánh, đồng nghĩa với phi thần luận (nontheism).
08/04/2013(Xem: 5761)
Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.
08/04/2013(Xem: 6866)
Thượng tọa bộ (上座部), sa. sthaviravāda, còn gọi Theravada, hoặc gọi là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Nam truyền. Bộ phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi đức Phật Nhập Niết Bàn. Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”.
08/04/2013(Xem: 6868)
Bốn bộ A Hàm là một kho tàng văn học vô cùng phong phú và sinh động về cả thể loại lẫn nội dung tư tưởng. Toàn bộ kinh văn chứa đựng hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sự phản ánh hoàn cảnh xã hội Ấn Độ hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, cho đến những tập tục, . . .
08/04/2013(Xem: 18183)
Tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ nhất trong họ ngôn ngữ của người Aryan Ấn Độ, một chi nhánh của họ ngôn ngữ Indo-Iranian thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Nó phát triển về hướng Đông và đã hình thành một nền văn học lớn có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều dân tộc trên thế giới, . . .
08/04/2013(Xem: 14454)
Cuốn sách Pāli Căn Bản này được soạn bởi nữ giáo sư Lily de Silva người Sri Lanka thuộc phân khoa nghiên cứu Phật giáo và Pāli của Trường Đại Học Peradeniya, Sri Lanka vào năm 1991.
08/04/2013(Xem: 3435)
Thập nhị nhân duyên còn gọi là pháp Duyên khởi hay pháp tùy thuộc phát sinh, có nghĩa là sự sinh khởi của một pháp tùy thuộc vào điều kiện hay yếu tố đi trước nó làm nhân cho yếu tố sau sinh khởi. Nhân là nhân tố cơ bản để hình thành một hiện hữu, . . .
08/04/2013(Xem: 3009)
Niềm tin là chất liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết hoặc sống gần như chết, sống thác loạn, điên cuồng, buông thả và bất cần đời. Nhưng niềm tin là gì và tin vào cái gì? Đó là vấn đề mà mỗi chúng ta phải tự vấn để thẩm định giá trị niềm tin của mình.
08/04/2013(Xem: 3413)
Đạo Phật là một tôn giáo lớn của nhân loại; ảnh hưởng của đạo Phật đối với con người và xã hội mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình tiến bộ của con người, và đã tạo nên nền văn hóa nhân bản theo tinh thần của xã hội Á Đông hơn 2.000 năm qua.
08/04/2013(Xem: 3878)
Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa. Đây là tông phái siêu việt, với nhiều đặc thù thuộc Đại thừa viên đốn. Gọi Đại thừa bởi tông này lấy tâm Bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567