Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

16/04/201920:29(Xem: 4703)
Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

Nghiên Cứu Cận Đại và Giáo Lý Phật Giáo Nói Gì Về Tái Sanh

Sam Littlefair/Lê Diễm Chi Huệ dịch

 

nghiencưucandaiphatgiao

Photo by Indra Dewa.


Điều gì sẽ xảy ra sau khi chúng ta qua đời?

Xưa nay, câu hỏi đó luôn nằm trong địa phận tôn giáo nhưng càng ngày nhiều nhà nghiên cứu cố tìm câu trả lời đó bằng phương cách khoa học.  Hầu hết Phật giáo truyền thống cho rằng có thể câu trả lời cho câu hỏi không thể trả lời đó là tái sanh.

Một số cho rằng Đức Phật nói về tái sinh vì đó là niềm tin đã được phổ biến rộng rãi tại Ấn độ từ thời cổ đại, nhưng trong cuốn sách mới tên là “Tái Sanh Trong Phật Giáo Khởi Nguyên và Nghiên Cứu Hiện Thời”, nhà sư , học giả Bhikkhu Analyo không tán đồng. Tái sanh là một đề tài gây cấn trong Ấn Độ cổ đại, và một số Phật giáo đương đại phủ nhận ý tưởng đó.  Ngạc nhiên thay, theo các kinh điển Phật giáo cổ, Đức phật nói rất nhiều về tái sanh. Trong kinh Phạm Võng có nêu rằng phủ nhận tái sanh là một quan điểm sai lầm.

Trong khi đó, một số tu sĩ Phật giáo đương thời cho rằng Phật giáo đồ không cần, hay không nên chú trọng vào kiếp trước và kiếp vị lai. Và không có một  sự hiểu biết thức đồng nhất về tái sanh từ kiếp này sang kiếp khác trong Phật giáo. Thật vậy, nhiều Phật giáo đồ đương thời xác định rằng chúng ta chắc chắc không biết gì về tái sanh.  Trong số báo tháng Năm của tạp chí Lion’s Roar, tác giả viết về một nghiên cứu về tái sanh do Jim Tucker, một nhà tâm lý học tại đại học Virginia, phân khoa Giác Quan Học thực hiện. Tucker không quan tâm nhiều về vấn đề tâm linh. Ông dùng phương thức khoa học để nghiên cứu những trường hợp các trẻ em có thể nhớ lại kiếp trước của mình, và như tác giả đã đề cập trong bài viết này là ông đã tìm ra nhiều điểm đáng chú ý.  Điểm đáng chú ý hơn ngoài những trường hợp riêng biệt có thể rút tỉa ra khi tất cả được quan sát chung.  Tucker và đồng nghiệp của ông thu thập cả ngàn trường hợp rồi đưa vào máy vi tính để phân tích thống kê, và họ có những kết luận thú vị.

Thật sai lầm khi cho rằng quan điểm Phật giáo có thể hoặc nên xác nhận quan điểm học thuật Phương Tây  và ngược lại. Nó khác nhau rõ rệt. Nhóm ông Tucker chú trọng vào tái sanh mà được hiểu chung chung là sự tồn tại của linh hồn từ thân xác này đến thân xác khác.  Quan niệm Phật giáo về vô ngã phủ nhận sự tồn tại của linh hồn và cho rằng chúng ta là tập hợp của nhiều hiện tượng luôn biến chuyển để tạo nên ảo tưởng của một bãn ngã.

Dưới đây là những khác biệt giữa các nghiên cứu và giáo lý Phật giáo về tái sanh.

1-Những đặc điểm mang theo ở kiếp sau

Ký ức và đặc điểm trên thân thể từ kiếp này sang kiếp sau là những hiện tượng chính được quan sát trong nghiên cứu hiện tượng tái sanh.  Nhiều khi các em bé biểu hiện triệu chứng Hậu Chấn Tâm Lý mặc dù không trải qua cuộc khủng hoảng nào trong kiếp sống hiện tại. Hơn nữa số các em bé mà kiếp trước bị chết đuối bây giờ lại sợ nước. Một số trường hợp biết nói tiếng ngoại ngữ hoặc có những khả năng đã được học hỏi từ trong kiếp trước.

Để tìm một hệ luận Phật giáo, chúng ta cần không cần nhìn đâu xa mà dựa vào cuộc đời đức Phật. Đức Phật được cho là nhớ được tất cả những việc xảy ra trong kiếp trước của ngài vào một đêm trước khi ngài giác ngộ. Chuyện truyền rằng Đức Phật được biết có đến có 32 tướng tốt . Khi ngài là một cậu bé đến trường, ngài có thể hiểu nhiều ngoại ngữ mà các thầy cô đều không biết. Những câu chuyện như vậy vẫn thấy xẩy ra với các vị Phật hoá thân, các vị Lạt Ma tái sanh trong Phật giáo Tây Tạng khi các vị này được nhận dạng bởi khả năng họ có thể nhận ra các đồ vật được sử dụng của các vị tiền thân.

2- Điều Tiên Đoán và Giấc Mơ

Các nhà nghiên cứu cũng nghiên cứu các tiên đoán siêu nhiên hoặc giấc mơ trùng hợp với các trường hợp đầu thai. Trong giấc mơ, người mẹ thường thấy một người hiện ra và xin được đầu thai làm con của họ. Trong tường hợp đức Phật, thân mẫu ngài thường mơ thấy một con voi đến bên cạnh và nhập vào thai mình. Trong hệ thống thị hiện thân, các đức Lạt Ma tiên đoán hoàn cảnh họ sẽ tái sanh như thế nào.

3-Nghiệp Lành

Nghiệp là một khái niệm phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong giới Phật đồ.  Nghiệp không chỉ diễn tả “gieo nhân nào gặp quả đó” mà giới bình dân thường biểu đạt. Nó là một sai lầm khi nghĩ rằng nghiệp nghĩa là tất cả hoàn cảnh của chúng ta đều là kết quả từ những hành động trong quá khứ.  Giới học giả Phật giáo cho rằng hoàn cảnh của chúng ta là dựa vào nhiều nhân tố mà không chỉ do nghiệp tạo thành.  Nghiệp ám chỉ rằng hành động của chúng ta đều có hậu quả.  Các quả nghiệp thường không thể đoán  chính xác và có thể không trổ ngay liền.  Chúng ta gặt quả nghiệp trong vài ba năm hoặc nhiều đời sau nghiệp quả mới trổ. Tuy nhiên, một số tu sĩ Phật giáo cho rằng nghiệp có nhiều xu hướng. Nhà sư, học giả Analayo viết rằng “một khuynh hướng căn bản là nghiệp xấu cuối cùng sẽ gặt quả trong tình huống xấu, và nghiệp lành sẽ thọ những quả lành”.

Thông thường nhất là ký ức Một cậu bé miêu tả những gì mà cậu ta đã trải nghiệm và xảy ra trước khi cậu bé chào đời.  Các nhà nghiên cứu có khuynh hướng tìm những trường hợp người chuyển kiếp mang tâm tính của kiếp trước. Bên cạnh ký ức, các nhà nghiên cứu cũng quan sát những đặc điểm trên thân thể như vết bớt hoặc dị tật và hành vi thuộc kiếp trước.  Trong nhiều trường hợp đứa bé mang vết bớt với kích thước và hình thể giống như vết đạn (đôi khi có cả vết bớt thứ hai to hơn hợp với vết đạn bắn ra) trùng hợp một cách chính xác với vết thương của đối tượng trước khi chuyển kiếp. Trong một vài trường hợp, khám nghiệm tử thi xác định vị trí của vết thương trùng vớp vị trí của vết bớt.  Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích thêm rằng nếu chúng ta muốn có một đời sống tái sanh tốt thì nên sống một đời sống đạo hạnh là đủ”.  Ngạc nhiên thay, các phân tích thống kê thực hiện bởi các nhà nghiên cứu hiện tượng tái sanh nêu rằng những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma nói có thể đúng.

Khi nhóm Tucker nghiên cứu một trường hợp nào, họ phân các đối tượng nghiên cứu ra nhiều thành phần dựa trên các yếu tố như thánh thiện, phạm tội, trái luân lý,  giàu lòng bác ái hay rộng lượng và mộ đạo. Sau đó, họ so sánh các đặc điểm này với hoàn cảnh kinh tế và vị thế xã hội trong kiếp sống hiện tại. Trong tất cả các nhân tố, Tucker thấy có một sự tương quan rằng các đối tượng nghiên cứu trong kiếp trước càng sống thánh thiện ở kiếp trước thì điều kiện kinh tế và vị thế xã hội của họ càng cao trong kiếp sống hiện tại.

4-Thói Quen

Càng nhận ra những rối rắm khi nói đến nghiệp, chúng ta thấy những xu hướng trong các nghiên cứu của Tucker.  Ví dụ, Tucker suy đo án rằng chúng ta luôn gặp bế tắc trong kiếp sống hiện tại và cả kiếp vị lai.  Một người giàu có kiếp này có thể trở nên nghèo khó trong kiếp sau. Ý tưởng này trùng hợp với quan niệm “Cõi Giới” trong Phật giáo, nghĩa là chúng ta có thể sinh ra trong cõi giới này hay cõi giới kia tuỳ thuộc vào trải nghiệm của chúng ta.  Như Tucker mô tả, tất cả những thói quen của chúng ta sẽ định doạt cõi giới mà chúng ta sẽ sinh ra.

Tucker cũng nhận thấy rằng thói quen có thể được tích trữ từ kiếp sống này qua kiếp sống khác. Các dữ kiện Nhóm Tucker thu thập cho thấy rằng có một sự tương quan ở đặc tính giữa kiếp trước và những kiếp sau: Người mộ đạo kiếp này có khuynh hướng là người mộ đạo kiếp sau; người giàu lòng bác ái trong kiếp này có khuynh hướng là người giàu lòng bác ái trong kiếp sau; thiền giả trong kiếp này có khuynh hướng là thiền giả kiếp sau.

5-Khả năng nhớ lại kiếp trước

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng khả năng một người nhớ lại kiếp trước của họ phụ thuộc vào “khả năng duy trì ký ức”.  Một người càng trẻ và càng ra đi đột ngột, họ càng có khả năng mang theo ký ức và tâm tính vào kiếp sau.  Điều này gần chính xác với nghiên cứu của Tucker.  Bảy mươi phần trăm trong các trường hợp Tucker nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu chết đột ngột trong kiếp trước và trùng bình số tuổi là 28.  Một phần tư đối tượng nghiên cứu chết trước 15 tuổi.

 “Một đứa bé chết trẻ có khả năng nhớ lại ký ức kiếp trước của nó”. Ông viết.

Hơn nữa, khi người chuyển kiếp chết chết tự nhiên, họ ít có khả năng nhớ lại vì họ ra đi như thế nào.  Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ký ức về kiếp trước thường được nhớ lại lúc còn nhỏ do đặc tính của người chuyển kiếp trong kiếp trước bị ảnh hưởng bởi trải nghiệp ở kiếp hiện tại. Trong nghiên cứu của Tucker, hầu hết các em bé nói về kiếp sống trước khi chúng bắt đầu biết nói và hết nhớ khoảng lúc 7 tuổi.  Khi chúng trở thành vị thành niên, chúng có thể phủ nhận việc đã từng nhớ về kiếp trước.  Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói rằng hành thiền sẽ giúp duy trì ký ức. Trong khi đó, Tucker cho rằng ông không thấy điểm này trong các nghiên cứu của mình. Các dữ kiện cho thấy rằng một người hành thiền trong kiếp trước, họ có thể có khả năng nhớ lại trải nghiệm trung ấm.

6- Giai Đoạn Trung Gian

Khoảng hai mươi phần trăm trong các trường hợp Tucker nghiên cứu nhớ lại ký ức giữa hai kiếp. Ký ức này gồm trải nghiệm đám tang, quá trình thụ thai, hoặc cõi giới khác.  Thời gian bình quân giữa chết và tái sanh khoảng mười lăm tháng, có nghĩa là khoảng sáu tháng kể từ khi chết và quá trình thụ thai.

Một số trường Phật học bàn luận khá nhiều về giai đoạn trung ấm, còn được gọi là “bardo”. Nổi tiếng nhất là cuốn Tử Thi Tây Tạng, mô tả chi tiết về trải nghiệm trung ấm thân. Nghiên cứu của Tucker mâu thuẩn với giáo lý Phật giáoTây Tạng vì giáo lý Phật giáo Tây Tạng cho rằng thần thức vong linh ở cõi trung ấm 49 ngày trước khi đi đầu thai, mặc dù đó là khoảng thời gian phỏng định và không phải ngày giờ trần gian. Một số Phật học viện khác cho rằng không có thời gian ấn định một vong linh ở trong cõi trung ấm bao lâu. Các học viện khác cũng không nói gì về thời gian trong cõi trung ấm.

Vì sao chúng ta dường như nói về ý tưởng có vẻ mê tín như vậy? Các Phật tử  thường nói về tái sanh và những quan niệm liên quan như nghiệp, cõi giới và giai đoạn trung ấm bởi vì đó là những trải nghiệm xảy ra từ kiếp sống này đến kiếp sống kế tiếp. Bất kể sinh tử, giáo lý Phật giáo cho rằng đây là những hiện tượng biến chuyển không ngừng.  Trong mỗi biến chuyển, các nhân tố tạo thành thân ngũ uẩn tan rã và cấu tạo lại một thân tái sanh khác khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta là thật, là những cá thể vĩnh cửu. Trong bất kỳ giây phút nào, chúng ta cũng có thể sinh vào cõi giới khác, hoặc vất vưởng trong cõi trung gian. Nhiều tu sĩ Phật giáo khuyên ngăn chúng ta không nên bận tâm quá nhiều vào khái niệm tái sanh từ kiếp này đến kiếp khác. Trong khi nó là đề tài nghiên cứu thú vị, nhưng ở khía cạnh thực hành tâm linh, nó có thể trở thành một vướng bận vô bổ.

Đức Chögyam Trungpa viết rằng “Nhiều người từng trải nghiệm và họ xác định hiện tượng tái sanh là có. Tại Anh Quốc, tôi biết một gia đình Thiên chúa giáo mất con gái trong một tai nạn. Vài năm sau họ sanh một bé gái khác. Một ngày nọ, đứa con gái đang qua đường với bố cô và cô bất ngờ nói: “Con không muốn qua đường này . Đây là con đường xảy ra tai nạn trước đây phải không Bố ?” Và thật vậy, con đường đó là nơi xảy ra tai nạn. Nhiều người khác cũng có trường hợp tương tự nhưng tôi không muốn suy đoán về điều này hay làm cho người khác phải tin. Điều quan trọng ở đây là tâm thức luôn tồn tại. Nó không bị phá huỷ. Khi chúng ta ngủ hay khi chúng ta không ý thức được, tâm thức vẫn hiện hữu mọi lúc.”


11 April 2019

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2010(Xem: 9212)
Đức Phật đã nói rằng trong tất cả những mùa khác nhau để cày cấy, mùa thu là mùa tốt nhất, trong tất cả những loại nhiên liệu để đốt, thì phân bò là tốt nhất, và trong tất cả những loại tỉnh giác khác nhau, sự tỉnh giác về sự vô thường và cái chết thì hữu hiệu nhất. Cái chết là điều nhất định, nhưng khi nào nó giáng xuống thì bất định. Nếu chúng ta thực sự đương đầu với sự việc, chúng ta không biết được cái gì sẽ tới trước – ngày mai hay cái chết. Chúng ta không thể hoàn toàn quả quyết rằng người già sẽ chết trước và người trẻ còn ở lại phía sau.
04/08/2010(Xem: 3734)
Vào ngày 23 tháng 02 năm 2008, Hòa Thượng Thánh Nghiêm có cuộc nói chuyện với đức cha thiên chúa giáo Đơn Quốc Tỉ về quan điểm sinh tử. Hôm nay, Hòa thượng đã xã báo an tường, thu thần thị tịch, để tỏ lòng tưởng niệm đến cố giác linh Ngài, Biên tập viên Minh Bửu đã biên dịch lại cuộc đối thọai này.
04/08/2010(Xem: 4403)
Chết là chủ đề, hầu hết mọi người không muốn nghe, không muốn bàn đến hoặc nghĩ đến. Tại sao như vậy? Và cho dù, chúng ta thích hoặc không thích, thì mỗi chúng sẽ phải chết trong một ngày nào đó. Thậm chí trước khi đối mặt với cái chết của bản thân, chúng ta sẽ đối mặt với những cái chết của người khác ( người trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…) Chết là điều sẽ xảy ra, là phần của cuộc sống, vì vậy tốt nhất là chúng ta nên đón nhận nó với quan điểm tích cực hơn là sợ hãi và phủ nhận nó. Cuốn sách “ Chuẩn bị cho cái chết và giúp đỡ người chết ” được dịch từ nguyên tác của Sangye Khadro, sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về cái chết./.
04/08/2010(Xem: 7207)
Đối với đa số, cái chết thường được quan niệm như một vách ngăn giữa hai thế giới: người mất–kẻ còn, hay cõi âm và dương thế. Trong cái nhìn của đạo Phật, cái chết được xem là một phần tự nhiên của cuộc sống. Trước sự ra đi của người thân, nhiều người thường rất đau buồn, đôi khi quên đi những sự chăm sóc và giúp đở cho người đã khuất một cách thiết thực và ý nghĩa. Nhân mùa Vu Lan–Báo hiếu PL.2546-2002, NSGN giới thiệu cùng bạn đọc về lời của một người ở thế giới bên kia, nguyên giáo sư Đại Học Y Khoa Geneve (Thụy Sĩ) với các con của ông, và vài gợi ý về phương pháp chăm sóc, giúp đở người thân trong tình trạng đặc biệt: ốm đau nặng hoặc lâm chung...
04/08/2010(Xem: 3916)
Phật giáo trả lời khẳng định. Phật giáo cho rằng tất cả chúng sinh, trừ các bậc đã giải thoát khỏi sinh tử (các vị A La Hán của tiểu thừa giáo) hay là các bậc đã tự chủ đối với sinh tử (các bậc thánh Bồ Tát của đại thừa), còn thì tất cả đều ở trong vòng sinh tử luân hồi.
04/08/2010(Xem: 5205)
Là con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ. Do đó, chúng ta thường tránh né nghĩ về- quá trình đi đến- cái chết của chúng ta. Sogyal Rinpoche nói rằng, chúng ta hoặc trốn chạy cái chết, hoặc chúng ta thờ ơ không nghĩ về nó và cho đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, Rinpoche nói, sự chết đối với chúng ta lại là giây phút quan trọng nhất trong đời sống của mình. Rinpoche (tiếng Tây tạng có nghĩa là:“vật báu” ) là tác giả của cuốn sách “Tạng thư sống chết”. Cuốn sách này đã được bán 1 triệu 500 bản ngay lần xuất bản đầu tiên và gần đây đã được tái bản lần thứ 10.
04/08/2010(Xem: 6326)
"Đời sống mong manh, chết là điều chắc chắn" Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
04/08/2010(Xem: 7314)
Trong những lần trước, chúng ta đã tìm hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đã chết rồi hồi sinh (Near death experience). Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần. Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống mãi mà cũng không no. Có l điều này ám chỉ những vong linh còn nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng vì không còn thể xác để thỏa mãn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia thì đay là một cõi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cõi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cõi trần như dục vọng, sự quyến luyến, lòng ham ăn uống hay đòi hỏi xác thịt.
05/05/2010(Xem: 11736)
Đại lễ Kỳ Siêu ngày 18 tháng hai năm Giáp Ngọ tại chùa Phật Ân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567