Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà

01/11/202022:20(Xem: 16978)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà



TT Thích Nguyên Tạng, Đại Nguyện Thứ 18, Thập Niệm Tất Sanh



48 ĐẠI NGUYỆN
 CỦA ĐỨC PHẬT DI ĐÀ

Biên soạn: HT Thích Trí Thủ
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
Giảng giải: TT Thích Nguyên Tạng



 

1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy

 

3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy

 

4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy

 

5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

6/ Đệ lục đại nguyện: thiên nhãn phổ kiến. Đại nguyện thứ sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhãn thông, thấy suốt vô lượng Phật độ khắp mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

7/ Đệ thất đại nguyện: thiên nhĩ phổ văn. Đại nguyện thứ bảy: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thiên nhĩ thông, nghe được pháp âm của chư Phật khắp mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

8/ Đệ bát đại nguyện: tha tâm tất tri. Đại nguyện thứ tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có tha tâm thông, biết được tâm niệm của khắp cả chúng sinh
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

9/Đệ cửu đại nguyện: thần túc vô ngại.  Đại nguyện thứ chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có thần túc thông, có thể đi đến khắp các Phật độ trong mười phương một cách vô ngại.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

10/ Đệ thập đại nguyện: bất tham kế thân. Đại nguyện thứ mười: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không còn khởi niệm tham ái đối với thân sau.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

11/ Đệ thập nhất đại nguyện: trú định chứng diệt. Đại nguyện thứ mười một: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc thường xuyên sống trong chánh định, cho đến khi chứng quả tịch diệt.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

12/Đệ thập nhị đại nguyện: quang minh vô lượng. Đại nguyện thứ mười hai: Ánh sáng của Phật A Di Đà sáng soi vô lượng, chiếu khắp mười phương Phật độ không bị chướng ngại.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

13/ Đệ thập tam đại nguyện: thọ mạng vô lượng. Đại nguyện thứ mười ba: Thọ mạng của đức Phật A Di Đà dài lâu vô lượng, làm lợi ích cho chúng sinh vô tận.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

14/ Đệ thập tứ đại nguyện: thanh văn vô số. Đại nguyện thứ mười bốn: Chúng Thanh-văn ở cõi Cực-lạc nhiều vô số.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

15/Đệ thập ngũ đại nguyện: Tùy Nguyện Tu Đoản. Đại nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng của chúng sinh ở cõi Cực-lạc, ngoại trừ nguyện lực riêng, đều dài lâu vô lượng.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

16/ Đệ thập lục đại nguyện: bất văn ác danh. Đại nguyện thứ mười sáu: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không nghe một lời bất thiện.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

17/ Đệ thập thất đại nguyện: chư Phật xưng thán. Đại nguyện thứ mười bảy: Chư Phật khắp mười phương đều xưng tán danh hiệu “A Di Đà”.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

18/Đệ thập bát đại nguyện: thập niệm tất sanh. Đại nguyện thứ mười tám: Tất cả chúng sinh trong mười phương, hết lòng tin tưởng, muốn vãng sinh về cõi Cực-lạc, chí thành niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng sinh.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

19/ Đệ thập cửu đại nguyện: lâm chung tiếp dẫn. Đại nguyện thứ mười chín: Chúng sinh trong mười phương phát tâm bồ đề, tu các công đức, thành tâm phát nguyện vãng sinh về cõi Cực-lạc, đến phút lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng sẽ hiện ngay trước mặt để tiếp dẫn.   
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

20/ Đệ nhị thập đại nguyện: dục sanh quá toại. Đại nguyện thứ hai mươi: Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, nghĩ nhớ đến Ngài, chí thành đem mọi công đức hồi hướng nguyện sinh về cõi Cực-lạc, chắc chắn sẽ được toại nguyện.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

21/ Đệ nhị thập nhất đại nguyện: tam thập nhị tướng. Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều đầy đủ 32 tướng tốt.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

22/ Đệ nhị thập nhị đại nguyện: nhất sanh bổ xứ. Đại nguyện thứ hai mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở khắp các quốc độ trong mười phương, sau khi sinh về cõi Cực-lạc, ngọai trừ có bản nguyện giáo hóa riêng, tất cả đều đạt đến địa vị “Nhất sanh bổ xứ”.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

23/ Đệ nhị thập tam đại nguyện: cúng dường chư Phật. Đại nguyện thứ hai mươi ba: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều nương Phật lực, chỉ trong khoảng bữa ăn có thể đến cúng dường chư Phật ở các Phật độ trong khắp mười phương.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

24/ Đệ nhị thập tứ đại nguyện: cung cụ tùy ý. Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Chư Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, trong khi cúng dường chư Phật, muốn có bao nhiêu vật phẩm để cúng dường cũng đều có đầy đủ như ý.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

25/ Đệ nhị thập ngũ đại nguyện: diễn thuyết diệu trí. Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có khả năng diễn nói nhất thiết trí.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

26/ nhị thập lục đại nguyện: Na la diên thân. Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có thân cứng chắc như kim cương, mạnh mẽ như thần Na La Diên.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)


27/ Đệ nhị thập thất đại nguyện: nhất thiết nghiêm tịnh. Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Tất cả chúng sinh và vạn vật ở cõi Cực-lạc đều nghiêm tịnh vi diệu, hình sắc đặc thù, dù người có thiên nhãn thông cũng không biết rõ ràng danh số.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

28/ Đệ nhị thập bát đại nguyện: đạo thọ cao hiển. Đại nguyện thứ hai mươi tám: Chư vị Bồ-tát cho đến những người chỉ có chút ít công đức ở cõi Cực-lạc đều có khả năng thấy biết sự cao rộng và sắc sáng vô lượng của cây đạo tràng.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

29/ Đệ nhị thập cửu đại nguyện: tụng kinh đắc tuệ. Đại nguyện thứ hai mươi chín: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều thọ trì phúng tụng kinh pháp mà được trí tuệ biện tài.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

30/ Đệ tam thập đại nguyện: tuệ biện vô hạn. Đại nguyện thứ ba mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều có trí tuệ biện tài vô hạn lượng.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

31/ Đệ tam thập nhất đại nguyện: chiếu kiến thập phương. Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Đất đai ở cõi Cực-lạc trong sạch như gương, có thể soi thấy các Phật độ ở mười phương.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

32/ Đệ tam thập nhị đại nguyện: bửu hương diệu nghiêm. Đại nguyện thứ ba mươi hai: Vạn vật ở cõi Cực-lạc đều do vô lượng châu báu và trăm ngàn thứ mùi hương vi diệu làm thành, khiến cho người nghe mùi hương đều tu Phật hạnh.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)


33/ Đệ tam thập tam đại nguyện: mông quang nhu nhuyến. Đại nguyện thứ ba mươi ba: Ánh sáng của đức Phật A Di Đà chiếu soi khắp các thế giới trong mười phương, các chúng sinh chạm được ánh sáng ấy đều cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng an lạc.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

34/ Đệ tam thập tứ đại nguyện: văn danh đắc nhẫn. Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Chúng sinh khắp thế giới mười phương nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà đều chứng được vô sinh pháp nhẫn và các pháp môn tổng trì sâu xa.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

35/ Đệ tam thập ngũ đại nguyện: thoát ly nữ thân. Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Những người nữ trong mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà liền phát tâm bồ đề, thì sau khi mạng chung sẽ không trở lại thọ thân nữ nữa.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

36/ Đệ tam thập lục đại nguyện: thường tu phạm hạnh. Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Chư Bồ-tát ở mười phương thế giới, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ luôn tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

37/ Đệ tam thập thất đại nguyện: thiên nhơn trí kính. Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Hàng trời người trong khắp mười phương thế giới, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền vui mừng tin tưởng, kính lễ và tu tập hạnh Bồ-tát, thì sẽ được tất cả trời người kính trọng.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

38/ Đệ tam thập bát đại nguyện: y thực tùy niệm. Đại nguyện thứ ba mươi tám: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc muốn có y phục, ẩm thực, thì liền có như ý.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

39/ Đệ tam thập cửu đại nguyện: lạc như lậu tận. Đại nguyện thứ ba mươi chín: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều hưởng được niềm vui giống như các vị tì kheo đã hoàn toàn dứt trừ hết lậu hoặc.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

40/ Đệ tứ thập đại nguyện: thọ trung hiện sát. Đại nguyện thứ bốn mươi: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc, nếu muốn thấy vô lượng Phật độ nghiêm tịnh trong khắp mười phương, cứ nhìn vào cây báu thì liền thấy rõ ràng như thấy mặt mình trong gương.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)


41/ Đệ tứ thập nhất đại nguyện: chư căn vô khuyết. Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, thì được các căn đầy đủ, không bị khiếm khuyết, cho đến khi thành Phật.
Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

42/ Đệ tứ thập nhị đại nguyện: thanh tịnh giải thoát. Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú nơi chánh định thanh tịnh giải thoát, trong khoảng một niệm có thể cúng dường vô lượng chư Phật mà không bị mất chánh định.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

43/ Đệ tứ thập tam đại nguyện: văn danh đắc phước. Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, khi nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, sau khi mạng chung sẽ được sinh vào gia đình tôn quí.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

44/ Đệ tứ thập tứ đại nguyện: tu hành túc đức. Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền hoan hỉ tu hạnh Bồ-tát, cội gốc công đức đầy đủ.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

45/ Đệ tứ thập ngũ đại nguyện: phổ đẳng tam muội. Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe được danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền được an trú trong định “phổ đẳng” (thường thấy chư Phật đồng hiện tiền), cho đến khi thành Phật.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

46/ Đệ tứ thập lục đại nguyện: tùy nguyện văn pháp. Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Chư vị Bồ-tát ở cõi Cực-lạc đều tùy nguyện mà nghe pháp một cách tự tại.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

47/ Đệ tứ thập thất đại nguyện: văn danh bất thối. Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền tiến đến bậc bất thối chuyển.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

48/ Đệ tứ thập bát đại nguyện: đắc tam pháp nhẫn. Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Chư vị Bồ-tát ở các quốc độ trong các phương khác, nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà, liền chứng được đệ nhất, đệ nhị và đệ tam pháp nhẫn, cùng các pháp bất thối chuyển.

Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)

 

 





Nghe bài giảng:

https://www.youtube.com/watch?v=D0MDhirhk-U&list=PLwMaauApd_W_lLny1EpKhzGLI-KeLwteK&index=12

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2010(Xem: 5170)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
13/10/2010(Xem: 3456)
Gần đây, trên thế giới nhất là tại Mỹ, dư luận bị kích động vì vài người y sĩ công khai tham gia hành động "trợ tử" (Euthanasia), và chấp nhận trách nhiệm, tự ý đưa tay vào còng của cảnh sát, hầu như thách đố pháp luật. Dư luận quần chúng rất phân tán, kẻ chê vô lương, người thì yểm trợ và đặc biệt là các tôn giáo lớn trong nước đều lên tiếng xác định lập trường. Câu hỏi ta tự đặt ra để tìm hiểu là lập trường của đạo Phật trong một vấn đề nặng về đạo đức, triết lý như vấn đề trợ tử, đã được đức Phật ngày xưa và kinh điển của Ngài để lại minh định như thế nào.
11/10/2010(Xem: 6588)
Hạnh phúc hay đau khổ là số phận chung của mọi chúng sinh, nhất là con người, và theo quan điểm Phật giáo thì đây không phải là phần thưởng hay hình phạt do Thượng Đế ban cho một sinh linh đã làm điều thiện hay điều ác. Tín đồ Phật giáo tin vào một định luật tự nhiên, gọi là “ luật nhân quả”, áp dụng chung cho tất cả mọi hiện tượng trong thế giới này. Tín đồ Phật giáo không tin vào một Đấng Thượng Đế toàn năng, và do đó một Đấng Thượng Đế như vậy, và ngay cả Đức Phật đại từ bi cũng không thể ngăn cản được định luật này.
07/10/2010(Xem: 4802)
Các lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này. Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh - andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh - oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
06/10/2010(Xem: 9934)
Thưa thớt vài chục nóc nhà xong thôn Tân Mỹ (Thừa Thiên Huế) lại có cả trăm ngôi mộ được xây dựng công phu, hoành tráng như một thành phố ma với chi phí lên tới vài ba tỷ đồng cho một ngôi.
03/10/2010(Xem: 7173)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
01/10/2010(Xem: 8409)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
29/09/2010(Xem: 4926)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
24/09/2010(Xem: 5592)
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất được quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm hay không? v.v... Đó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn của nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người còn bị trầm luân trong sanh tử khổ đau...
28/08/2010(Xem: 4546)
Trăm năm ngó xuống đời hư ảo - Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567