Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Madras, 9 tháng mười hai 1959

09/07/201100:31(Xem: 3286)
6. Madras, 9 tháng mười hai 1959

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Đường bay của Đại bàng: Sự phân chia

Madras, 9 tháng mười hai 1959

Liệu có thể sống cùng một ý thức của hòa hợp, vẻ đẹp, cùng một ý thức của mãn nguyện không bao giờ kết thúc – hay đúng hơn, tôi sẽ không nói mãn nguyện bởi vì mãn nguyện mang lại thất vọng – nhưng liệu có một trạng thái không bao giờ kết thúc của hành động mà trong nó không có đau khổ, không có hối hận, không có nguyên nhân để hối tiếc hay không? Nếu có một trạng thái như thế, vậy thì làm thế nào người ta đến được nó? Rõ ràng người ta không thể vun quén nó. Người ta không thể nói, “Tôi sẽ sống hòa hợp”; nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Thừa nhận rằng người ta phải điều chỉnh chính mình với mục đích được hòa hợp là một cách suy nghĩ thiếu chín chắn. Trạng thái của hòa hợp trọn vẹn, của hành động nhất thể, chỉ có thể đến khi người ta không đang tìm kiếm nó, khi cái trí không đang cưỡng bách chính nó vào một lối sống khuôn mẫu.

Hầu hết chúng ta đã không suy nghĩ nhiều lắm về tất cả điều này. Trong những hoạt động hàng ngày của chúng ta, chúng ta chỉ quan tâm đến thời gian, bởi vì thời gian giúp đỡ chúng ta quên lãng; thời gian chữa trị những vết thương của chúng ta, dù tạm thời như thế nào chăng nữa; thời gian làm tan biến những tuyệt vọng của chúng ta, những thất vọng của chúng ta. Bị trói buộc trong qui trình thời gian, làm thế nào người ta sẽ bất chợt bắt gặp trạng thái lạ thường này mà trong đó không có mâu thuẫn, mà trong đó chính chuyển động của sống là hành động hòa hợp, và sống hàng ngày là thực tế? Nếu mỗi người chúng ta nghiêm túc tự đặt câu hỏi này cho chính mình, vậy thì tôi nghĩ chúng ta có thể hiệp thông cùng nhau trong tháo gỡ vấn đề; nhưng nếu bạn chỉ đang lắng nghe những từ ngữ, vậy thì bạn và tôi không hiệp thông. Chúng ta hiệp thông cùng nhau chỉ khi nào đây là một vấn đề cho cả hai. Lúc đó nó không chỉ là vấn đề của tôi, mà tôi đang áp đặt vào bạn hay bạn đang cố gắng diễn giải tùy theo những niềm tin và cá tánh của bạn. Đây là một vấn đề con người, một vấn đề thế giới, và nếu nó rất rõ ràng cho mỗi người chúng ta, vậy thì điều gì tôi đang nói, điều gì tôi đang suy nghĩ và đang cảm thấy, sẽ mang lại một trạng thái hiệp thông giữa chúng ta, và cùng nhau chúng ta có thể thâm nhập những chiều sâu vô hạn.

Vì vậy vấn đề là gì? Vấn đề là rằng chắc chắn phải có một thay đổi cơ bản, không chỉ tại một mức độ hời hợt, trong những hoạt động bên ngoài của người ta, nhưng phía bên trong, thăm thẳm; phải có một cách mạng bên trong mà sẽ thay đổi cách suy nghĩ của người ta và tạo ra một lối sống mà trong chính nó là hành động tổng thể. Và tại sao một cách mạng như thế không xảy ra được? Đó là vấn đề khi người ta thấy nó. Vì vậy chúng ta hãy tự thâm nhập thật sâu vào chính chúng ta và khám phá gốc rễ của vấn đề này.

Gốc rễ của vấn đề này là sợ hãi, phải không? Làm ơn hãy tự tìm hiểu nó và đừng coi tôi như một diễn giả đang thuyết giảng trước một số khán giả. Tôi muốn tìm hiểu vấn đề này cùng bạn bởi vì, nếu bạn và tôi cùng nhau tìm hiểu nó, và cả hai chúng ta đều hiểu rõ cái gì đó mà đúng thực, vậy thì từ hiểu rõ đó sẽ có một hành động mà cũng không là hành động của tôi hay hành động của bạn, và những quan điểm mà chúng ta đã tiên tục cãi cọ sẽ chấm dứt.

Tôi cảm thấy có một sợ hãi cơ bản mà người ta phải khám phá – một sợ hãi sâu xa hơn sợ hãi mất công việc của người ta, hay sợ hãi đi sai đường, hay sợ hãi không an toàn bên ngoài hoặc bên trong. Nhưng muốn tìm hiểu nó rất kỹ càng, người ta phải bắt đầu với những sợ hãi mà chúng ta biết, những sợ hãi mà tất cả chúng ta đều ý thức được. Tôi không cần nói cho bạn chúng là gì, bởi vì bạn có thể quan sát chúng trong chính bạn: sợ hãi quan điểm quần chúng, sợ hãi mất người con của người ta, người vợ của người ta, hay người chồng của người ta qua những trải nghiệm bi đát được gọi là chết, sợ hãi bệnh tật, sợ hãi cô độc, sợ hãi không thành công, không thành đạt, sợ hãi không đạt được một hiểu biết về sự thật, Thượng đế, thiên đàng, hay điều gì bạn muốn. Những người nguyên thủy có một vài sợ hãi rất đơn giản, nhưng chúng ta có vô vàn sợ hãi mà sự phức tạp của chúng gia tăng khi chúng ta trở nên mỗi lúc một “văn minh.”

Bây giờ sợ hãi là gì? Bạn có khi nào đã thực sự trải nghiệm sợ hãi? Bạn có lẽ mất việc làm của bạn, bạn có lẽ không là một người thành công, người hàng xóm của bạn có lẽ nói điều này điều kia về bạn, và chết luôn luôn đang chờ bạn quanh góc đường. Tất cả việc này nuôi dưỡng sợ hãi trong bạn, và bạn chạy trốn nó qua yoga, qua đọc sách báo, qua tin tưởng Thượng đế, qua vô vàn hình thức vui chơi, và mọi chuyện như thế. Vì vậy tôi đang hỏi: Bạn có khi nào đã thực sự trải nghiệm sợ hãi, hay cái trí luôn luôn chạy trốn nó?

Ví dụ như sợ hãi chết. Vì sợ hãi chết, bạn lý luận cho mất đi sợ hãi của bạn bằng cách nói rằng chết là điều không tránh khỏi, rằng mọi thứ đều phải chết. Tiến trình lý luận chỉ là một tẩu thoát khỏi sự kiện. Hay bạn tin tưởng vào sự đầu thai, mà gây thỏa mãn, gây an ủi bạn, nhưng sợ hãi vẫn còn đó. Hay bạn cố gắng sống trọn vẹn trong hiện tại, để quên lãng tất cả quá khứ và tương lai, và chỉ quan tâm đến lúc này, nhưng sợ hãi tiếp tục.

Tôi đang hỏi bạn liệu bạn có khi nào đã biết sợ hãi thực sự – không phải sợ hãi lý thuyết mà cái trí chỉ tưởng tượng. Có lẽ tôi không đang giải thích nó rõ ràng lắm. Bạn biết hương vị của muối. Bạn đã trải nghiệm đau khổ, thèm khát, ganh tị, và bạn tự biết những từ ngữ này có nghĩa gì. Trong cùng cách đó, bạn biết sợ hãi chứ? Hay bạn chỉ có một ý tưởng của sợ hãi là gì mà đã không thực sự trải nghiệm sợ hãi? Tôi đang giải thích rõ ràng chứ?

Bạn sợ hãi chết, và sợ hãi đó là gì? Bạn thấy chết là không tránh khỏi, và bởi vì bạn không muốn chết, bạn sợ hãi nó. Nhưng bạn chưa bao giờ biết chết là gì; bạn chỉ chiếu rọi một quan điểm, một ý tưởng về nó. Vậy là bạn sợ hãi một ý tưởng về chết. Điều này khá đơn giản, và tôi hoàn toàn không hiểu sự khó khăn của chúng ta.

Muốn thực sự trải nghiệm sợ hãi, bạn phải trọn vẹn cùng nó; bạn phải hoàn toàn trong nó và không lẩn tránh nó; bạn không thể có những niềm tin, những quan điểm về nó. Nhưng tôi không nghĩ nhiều người chúng ta đã từng trải nghiệm sợ hãi trong cách này bởi vì chúng ta luôn luôn đang lẩn tránh, đang chạy trốn sợ hãi. Chúng ta không bao giờ ở lại cùng nó, nhìn ngắm nó, tìm ra, nó là cái gì.

Liệu cái trí có thể sống cùng sợ hãi, là một bộ phận của nó? Liệu cái trí có thể thâm nhập cảm giác đó thay vì lẩn tránh nó hay cố gắng tẩu thoát nó? Tôi nghĩ phần lớn do bởi chúng ta luôn luôn đang chạy trốn sợ hãi nên chúng ta phải sống những cuộc sống mâu thuẫn như thế.

Thưa các bạn, người ta ý thức được, đặc biệt khi người ta già nua, rằng chết luôn luôn đang chờ đợi.Và bạn sợ hãi chết, phải không? Bây giờ, làm thế nào bạn sẽ hiểu rõ sợ hãi đó? Làm thế nào bạn sẽ được tự do khỏi sợ hãi chết? Chết là gì? Thực sự nó là sự kết thúc của mọi thứ bạn đã biết. Đó là sự kiện thực tế. Liệu bạn có tồn tại hay không không đặt thành vấn đề. Tồn tại sau khi chết chỉ là một ý tưởng. Bạn không biết, nhưng bạn tin tưởng, bởi vì tin tưởng cho bạn sự an ủi. Bạn không bao giờ tìm hiểu chính nghi vấn của chết, bởi vì chính ý tưởng đến một kết thúc, đi vào cái hoàn toàn không biết được là một kinh hoàng đối với bạn nên nó mới đánh thức sợ hãi. Vì sợ hãi, bạn nương dựa những hình thức khác nhau của niềm tin như một phương tiện của tẩu thoát.

Chắc chắn, muốn được tự do khỏi sợ hãi, bạn phải biết chết là gì trong khi bạn còn tràn đầy sinh lực cả thân thể lẫn tinh thần, đi làm việc, tham dự mọi thứ. Bạn phải biết bản chất của chết trong khi đang sống. Niềm tin sẽ không xóa sạch sợ hãi. Bạn có lẽ đọc vô số sách về đời sau, nhưng việc đó sẽ không làm tự do cái trí khỏi sợ hãi, bởi vì cái trí chỉ quen thuộc một việc, đó là sự tiếp tục qua ký ức, và thế là chính ý tưởng của đến một kết thúc là một kinh hoàng. Sự hồi tưởng liên tục về những sự việc bạn đã trải nghiệm và thụ hưởng, mọi thứ bạn đã sở hữu, nhân cách bạn đã xây dựng, những lý tưởng của bạn, những tầm nhìn của bạn, hiểu biết của bạn – tất cả việc đó sắp đến một kết thúc. Và làm thế nào cái trí sẽ được tự do khỏi sợ hãi? Đó là vấn đề, không phải liệu có một tiếp tục sau khi chết hay không.

Nếu tôi muốn được tự do khỏi sự sợ hãi của kết thúc, chắc chắn tôi phải tìm hiểu bản chất của chết. Tôi phải trải nghiệm nó; tôi phải biết nó là gì: vẻ đẹp của nó, chất lượng lạ thường của nó. Nó phải là sự việc lạ thường khi chết, khi thâm nhập vào cái gì đó chưa bao giờ được tưởng tượng, hoàn toàn không biết được.

Bây giờ làm thế nào cái trí sẽ trải nghiệm, trong khi đang sống, sự kết thúc đó được gọi là chết? Chết là kết thúc. Nó là kết thúc của thân thể và có lẽ cũng của cái trí. Tôi không đang bàn luận liệu có hay không có tồn tại sau khi chết. Tôi quan tâm đến chết. Tôi không thể kết thúc trong khi đang sống hay sao? Cái trí của tôi – với tất cả những suy nghĩ của nó, những hoạt động của nó, những kỷ niệm của nó – đến một kết thúc trong khi đang sống, trong khi thân thể không bị suy sụp qua tuổi già và bệnh tật hay bị quét sạch bởi một tai nạn hay sao? Cái trí, mà đã thiết lập một tiếp tục, không thể đến một kết thúc, không phải tại khoảnh khắc cuối cùng, nhưng ngay lúc này hay sao? Đó là, cái trí không thể được tự do khỏi tất cả những tích lũy của ký ức hay sao?

Bạn là một người Ấn độ giáo, một người Thiên chúa giáo, hay người nào bạn muốn. Bạn bị định hình bởi quá khứ, bởi phong tục, bởi truyền thống. Bạn tham lam, ganh ghét, sung sướng, vui vẻ, cảm kích cái gì đó đẹp đẽ, đau khổ vì không được thương yêu, không thể mãn nguyện – bạn là tất cả việc đó, mà là sự tiến hành của tiếp tục. Hãy ví dụ một trường hợp của nó. Bạn quyến luyến tài sản của bạn, người vợ của bạn. Đó là một sự kiện. Tôi không đang nói về tách rời. Bạn quyến luyến những quan điểm của bạn, những cách suy nghĩ của bạn.

Bây giờ, liệu bạn không thể đến sự kết thúc của quyến luyến đó hay sao? Tại sao bạn quyến luyến? Đó là câu hỏi, không phải làm thế nào để được tách rời. Nếu bạn cố gắng được tách rời, bạn chỉ nuôi dưỡng sự đối nghịch, và vì vậy mâu thuẫn tiếp tục. Nhưng khoảnh khắc cái trí của bạn được tự do khỏi quyến luyến, nó cũng được tự do khỏi ý thức của tiếp tục qua quyến luyến, phải không? Vì vậy tại sao bạn quyến luyến? Bởi vì bạn sợ hãi rằng nếu không quyến luyến bạn sẽ không là gì cả; thế là bạn là ngôi nhà của bạn, bạn là người vợ của bạn, bạn là tài sản ngân hàng của bạn, bạn là công việc của bạn. Bạn là tất cả những thứ này. Và nếu có một kết thúc cho ý thức của tiếp tục qua quyến luyến này, một kết thúc trọn vẹn, lúc đó bạn sẽ biết chết là gì.

Các bạn hiểu rõ chứ, thưa các bạn? Tôi thù hận, chúng ta hãy ví dụ như thế, và tôi đã ôm ấp thù hận này trong ký ức của tôi suốt nhiều năm, liên tục đấu tranh để quên nó. Liệu tôi có thể ngay tức khắc kết thúc thù hận? Liệu tôi có thể buông bỏ nó bằng tánh kết thúc của chết?

Khi chết đến, nó không xin phép bạn; nó đến và đem bạn đi; nó hủy diệt bạn ngay tức khắc. Trong cùng cách đó, liệu bạn có thể buông bỏ hoàn toàn thù hận, ganh tị, tự hào của sở hữu, quyến luyến những niềm tin, những quan điểm, những ý kiến, một loại suy nghĩ đặc biệt được không? Liệu bạn có thể buông bỏ tất cả việc đó trong một tích tắc được không? Không có “buông bỏ nó như thế nào,” bởi vì đó chỉ là một hình thức khác của tiếp tục. Buông bỏ quan điểm, niềm tin, quyến luyến, tham lam, hay ganh tị là chết – chết từng ngày, từng khoảnh khắc. Nếu có động thái đến một kết thúc của tất cả tham vọng từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, lúc đó bạn sẽ biết trạng thái lạ thường của không là gì cả, của đến bờ vực của một chuyển động thường hằng, như nó đã là, rơi qua bờ kia, mà là chết.

Tôi muốn biết tất cả mọi điều về chết. Bởi vì chết có lẽ là sự thật; nó có lẽ là điều gì chúng ta gọi là “Thượng đế,” cái gì đó lạ thường nhất mà sống và chuyển động tuy nhiên không khởi đầu và không kết thúc. Vậy là tôi muốn biết tất cả mọi điều về chết. Để được như thế tôi phải chết đi mọi thứ tôi biết rồi. Cái trí có thể biết được cái không biết được chỉ khi nào nó chết đi cái đã được biết – chết đi mà không có mọi động cơ, mà không hy vọng được phần thưởng hay sợ hãi bị trừng phạt. Vậy là tôi có thể tìm ra chết là gì trong khi tôi đang sống – và trong ngay khám phá đó có tự do khỏi sợ hãi.

Liệu có hay không có một tiếp tục sau khi thân thể chết đi đều không liên quan.
Liệu bạn có được sanh lại hay không là một sự việc nhỏ nhen.

Đối với tôi, sống không tách lìa chết bởi vì trong sống có chết. Không có phân chia giữa chết và sống. Người ta biết chết bởi vì cái trí đang chết đi từng giây phút, và trong ngay kết thúc đó, có mới mẻ lại, tươi trẻ, trong sáng, hồn nhiên – không phải trong tiếp tục. Nhưng với hầu hết chúng ta, chết là một sự việc mà cái trí thực sự đã chưa bao giờ trải nghiệm. Muốn trải nghiệm chết trong khi đang sống, tất cả những ma mãnh của cái trí – mà ngăn cản trải nghiệm trực tiếp đó – phải kết thúc.

Tôi không hiểu liệu bạn có khi nào biết tình yêu là gì? Bởi vì tôi nghĩ chết và tình yêu theo cùng nhau. Chết, tình yêu, và sống là một và giống hệt. Nhưng chúng ta đã phân chia sống, như chúng ta đã phân chia quả đất. Chúng ta nói về tình yêu như hoặc là xác thịt hoặc là tinh thần và đã vận hành một trận chiến giữa thiêng liêng và ô uế. Chúng ta đã tách rời tình yêu là gì khỏi tình yêu nên là gì, vì vậy chúng ta không bao giờ biết tình yêu là gì. Chắc chắn, tình yêu là một cảm thấy tổng thể mà không thuộc cảm giác và trong nó không có ý thức của phân chia. Nó là sự tinh khiết tuyệt đối của cảm thấy mà trong nó không có chất lượng gây phân chia, gây tách rời của trí năng. Tình yêu không có ý thức của tiếp tục. Nơi nào có ý thức của tiếp tục, tình yêu chết rồi, và nó tỏa mùi của ngày hôm qua, với tất cả nhũng kỷ niệm, những cãi cọ, những hung tợn xấu xa của nó. Muốn thương yêu, người ta phải chết đi.

Chết là tình yêu – hai cái không tách lìa. Nhưng làm ơn đừng thuộc lòng những từ ngữ của tôi. Bạn phải tự trải nghiệm điều này; bạn phải biết nó, tận hưởng nó, khám phá nó cho chính bạn.

Sợ hãi sự cô độc, cô lập hoàn toàn, sợ hãi không là gì cả, là nền tảng, chính gốc rễ của tự-mâu thuẫn của chúng ta. Bởi vì chúng ta sợ hãi không là gì cả, chúng ta bị vỡ vụn bởi nhiều ham muốn, mỗi ham muốn xé nát chúng ta trong một phương hướng khác biệt. Đó là lý do tại sao, nếu cái trí muốn biết hành động không mâu thuẫn, tổng thể – một hành động trong đó việc đi làm cũng giống hệt như không đi làm, hay giống hệt như trở thành một khất sĩ, hay giống hệt như thiền định, hay giống hệt như nhìn ngắm những bầu trời của một chiều tối – phải có tự do khỏi sợ hãi. Nhưng không thể có tự do khỏi sợ hãi nếu bạn không trải nghiệm nó, và bạn không thể trải nghiệm sợ hãi nếu bạn còn tìm kiếm những phương cách và những phương tiện tẩu thoát khỏi nó. Thượng đế của bạn là một tẩu thoát tuyệt vời khỏi sợ hãi. Tất cả những nghi lễ của bạn, những quyển sách của bạn, những lý thuyết và những niềm tin của bạn, ngăn cản bạn không thực sự trải nghiệm nó. Bạn sẽ phát hiện rằng có một ngừng lại tổng thể của sợ hãi trong kết thúc – kết thúc của ngày hôm qua, của cái gì đã là, mà là đất màu trong đó sợ hãi xuyên vào những cái rễ của nó. Sau đó bạn sẽ khám phá rằng tình yêu và sống và chết là một và giống hệt. Cái trí được tự do chỉ khi nào những tích lũy của ký ức đã buông bỏ. Sáng tạo trong kết thúc, không trong tiếp tục. Chỉ đến lúc đó mới có hành động tổng thể mà là đang sống, đang yêu, và đang chết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2010(Xem: 3526)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ. Mọi người đồng ý rằng bạn nên khởi lòng bi mẫn. Vấn đề là, cách lòng bi mẫn chuyển thành những hành động cụ thể thì lại không mấy giống nhau. Đối với một số người, bi mẫn có nghĩa là kéo dài mạng sống càng lâu càng tốt; nhưng đối với một số người khác, bi mẫn là chấm dứt đời sống - thông qua việc trợ tử - khi mà phẩm chất đời sống của người bệnh không còn là bao. Và không có ai trong hai nhóm này xem nhóm khác là có lòng bi mẫn thực sự. Nhóm trước xem nhóm sau là tội phạm; còn nhóm sau xem nhóm trước là tàn nhẫn và độc ác.
13/10/2010(Xem: 5028)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
13/10/2010(Xem: 3338)
Gần đây, trên thế giới nhất là tại Mỹ, dư luận bị kích động vì vài người y sĩ công khai tham gia hành động "trợ tử" (Euthanasia), và chấp nhận trách nhiệm, tự ý đưa tay vào còng của cảnh sát, hầu như thách đố pháp luật. Dư luận quần chúng rất phân tán, kẻ chê vô lương, người thì yểm trợ và đặc biệt là các tôn giáo lớn trong nước đều lên tiếng xác định lập trường. Câu hỏi ta tự đặt ra để tìm hiểu là lập trường của đạo Phật trong một vấn đề nặng về đạo đức, triết lý như vấn đề trợ tử, đã được đức Phật ngày xưa và kinh điển của Ngài để lại minh định như thế nào.
11/10/2010(Xem: 6408)
Hạnh phúc hay đau khổ là số phận chung của mọi chúng sinh, nhất là con người, và theo quan điểm Phật giáo thì đây không phải là phần thưởng hay hình phạt do Thượng Đế ban cho một sinh linh đã làm điều thiện hay điều ác. Tín đồ Phật giáo tin vào một định luật tự nhiên, gọi là “ luật nhân quả”, áp dụng chung cho tất cả mọi hiện tượng trong thế giới này. Tín đồ Phật giáo không tin vào một Đấng Thượng Đế toàn năng, và do đó một Đấng Thượng Đế như vậy, và ngay cả Đức Phật đại từ bi cũng không thể ngăn cản được định luật này.
07/10/2010(Xem: 4659)
Các lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này. Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh - andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh - oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
06/10/2010(Xem: 9815)
Thưa thớt vài chục nóc nhà xong thôn Tân Mỹ (Thừa Thiên Huế) lại có cả trăm ngôi mộ được xây dựng công phu, hoành tráng như một thành phố ma với chi phí lên tới vài ba tỷ đồng cho một ngôi.
03/10/2010(Xem: 7057)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
01/10/2010(Xem: 8212)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
29/09/2010(Xem: 4812)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
24/09/2010(Xem: 5515)
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất được quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm hay không? v.v... Đó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn của nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người còn bị trầm luân trong sanh tử khổ đau...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567