Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh sáng trong kinh nghiệm cận tử

08/04/201319:58(Xem: 11213)
Ánh sáng trong kinh nghiệm cận tử

A_Di_Da_Phat_10

Ánh Sáng Trong Kinh Nghiệm Cận Tử



I. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG CẬN TỬ Ở PHƯƠNG TÂY



Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life vào năm 1975, công chúng phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (KNCT). Các tiến bộ không ngừng của kỹ thuật Y-sinh học đã làm hồi sinh nhiều người : trước đây đã được xem là đã chết lâm sàng. Hai phần ba số người này không nhớ gì cả. Số người còn lại trải qua hiện tượng dị thường như tiếp xúc với thân thể Quang Minh (Being of light) đầy lòng từ bi giúp họ ôn lại kiếp sống hiện nay và khắc ghi nơi họ sự tha thiết muốn giúp đỡ kẻ khác.

Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ, 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua KNCT. Nhưng ít người chịu nói đến các kinh nghiệm này. Vì kỷ nguyên khoa học hiện đại vẫn còn giữ thái độ nghi kỵ những gì liên quan đến siêu nhiên. Mỉa mai thay, KNCT lại là một phó phẩm của sự tiến bộ khoa học khi số người chết lâm sàng ở bệnh viện được hồi sinh càng ngày càng đông.

Tác phẩm của R.Moody đã mở ra một lãnh vực nghiên cứu mới. Tâm lý gia Kenneth Ruig thành lập hiệp hội quốc tế nghiên cứu KNCT (The International Association For Near Death Studies) trụ sở chính tại trường Đại học Connecicut. Hội đảm đương và điều phối các công trình nghiên cứu KNCT, xuất bản tin thường kỳ thông báo bằng thư Newsletter Vital Signs và tạp chí Anabiosis, giúp các người đã trải qua KNCT tận dụng kinh nghiệm của mình; bảo trợ các khóa học tập cho các chuyên gia KNCT và là nguồn cung cấp cho công chúng các tin tức có liên quan đến KNCT.

Với tác phẩm Hướng tới Omega (Heading toward Omega) xuất bản 1984, tâm lý gia K.Ruig tạo ra một bước đột phá mới: không còn quan tâm đến bản thân hiện tượng cận tử mà chú trọng các ảnh hưởng tác động lên đời sống con người trải qua KNCT, gọi tắt là cận tử nhân (CTN). Bằng những chi tiết đầy ấn tượng, Ruig mô tả các CTN đã chuyển biến từ các giá trị vật chất sang các giá trị tinh thần như sự quan tâm trìu mến và chấp nhận kẻ khác như thế nào. Theo các nhà xã hội học thì dường như các chuyển biến này bắt nguồn từ tâm trạng không còn sợ chết hay sợ chết rất ít của các CTN.

Nhờ liên lạc với Hiệp hội quốc tế nghiên cứu KNCT, nhà xã hội học Charles P.Flynn viết tác phẩm After the Beyond-Human Transformation and the near death Experience (tạm dịch: Sự chuyển hóa con người và kinh nghiệm cận tử sau khi chết) đề cập đến khía cạnh chuyển hóa nhân cách của KNCT chẳng những đối với CTN mà còn đối với những ai có dịp tiếp xúc với các CTN. Tác giả cố gắng đặt KNCT trong một bối cảnh văn hóa và lịch sử lớn rộng hơn bằng cách tìm hiểu xem KNCT có ý nghĩa gì đối với việc chấm dứt chiến tranh và tạo ra một thế giới thương yêu nhau hơn.

II. HIỆN TƯỢNG ÁNH SÁNG TRONG KINH NGHIỆM CẬN TỬ (KNCT)



Trong khi chết lâm sàng, Cận tử nghiệp thường thấy nhiều hiện tượng xảy ra như: từ trên cao nhìn thấy các bác sĩ tìm cách hồi sinh thể xác, ở trong một khoảng trống tối đen, trôi thật nhanh qua một đường hầm, gặp lại người thân đã qua đời .v..v.. trong đó việc tiếp xúc với ánh sáng có tầm ảnh hưởng quan trọng đến sự chuyển biến về mặt sinh hoạt của CTN sau khi sống lại: CTN Elaine Winner mô tả:

"Thứ ánh sáng đó không phải là thứ ánh sáng chúng ta có ở đây: nó sáng hơn. Tôi cảm thấy mình tiến gần đến thứ ánh sáng cực kỳ dễ chịu đó. Tôi không ý thức là mình có xác thân...

Trong giây phút đó tôi nhận thức rằng thực sự không có cái chết. Cái mà ta cho là chết chỉ là cái chết của thể xác. Phần nội tại của bạn không bao giờ chết; cái tinh thần đó sống mãi.

Khi đến gần tôi cảm thấy ánh sáng phát ra năng lượng tình thương lớn không thể tin nổi. Tôi cảm thấy hiểu biết, tha thứ... thứ tình thương này tràn đầy, trọn vẹn đến nỗi tôi không sao tin nổi"

Một CTN khác Phật: "Ánh sáng chỉ cho thấy những gì tôi đã làm, những hành động không được đẹp như làm tổn thương tình cảm người khác, những gì tôi đáng lẽ đã làm một cách tốt lành hơn, như đối xử tử tế với nhiều người hơn, giúp đỡ nhiều người hơn. Nhưng tôi cảm thấy rằng ánh sáng không đưa ra cái điều đó để lên án tôi mà chỉ để tôi thấu hiểu. Và hình như ánh sáng cũng tha thứ. Nó tha thứ những vi phạm, có thể nói như vậy".

Nhiều CTN cảm thấy mình là thành phần của thứ ánh sáng toàn bi toàn trí đó: "Cảm thấy mình được bao trùm trong thứ tình thương đó, được bao quanh bởi sự hiểu biết đến từ ánh sáng, tôi cảm thấy như mình biết được bí mật của vạn vật từ vô thỉ cho đến vô chung, và tôi ý thức rằng không có sự tận cùng. Tôi trực nhận rằng chúng ta chỉ là một phần tử rất nhỏ của cái vĩ đại của vũ trụ. Nhưng chúng ta cũng hết sức đặc biệt" Ánh sáng cũng cho biết lúc CTN trở về cõi sống, một số CTN thuật lại rằng ánh sáng cho phép họ quyền được chọn sự chết luôn hay sống lại sau khi đã nhấn mạnh rằng CTN chưa hoàn thành công việc và các thân nhân rất cần đến họ.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA KNCT ĐỐI VỚI QUÃNG ĐỜI CÒN LẠI CỦA CTN



Sau khi sống lại, các CTN thường cảm thấy cô độc, thất vọng vì không thể làm cho thân bằng quyến thuộc hiểu, thậm chí lắng nghe kinh nghiệm mà họ đã trải qua. Một số phải ly dị vì quan niệm đối với giá trị vật chất của họ không còn phù hợp với người phối ngẫu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cặp vợ chồng, dù trải qua các khó khăn bất đồng buổi ban đầu, đã thích ứng được với nhau trong tinh thần hiểu biết hy sinh.

Sự tương phản giữa tính cách thanh bình và yêu thương của KNCT và thực tế gay gắt của cuộc sống thường nhật đã tạo nhiều khó khăn cho các CTN trong quá trình thể hiện kinh nghiệm vào các giao tiếp xã hội. Gặp ánh sáng không có nghĩa là thường trú trong ánh sáng. Đối với nhiều người, giác ngộ chỉ đến sau nhiều năm thắng vượt các bi kịch của con người, hoặc sau nhiều năm dài nghiên cứu, cầu nguyện, tham thiền. Nhiều CTN chưa chuẩn bị gì cả để đón nhận cái KNCT đầy sáng suốt, thương yêu, trí tuệ đó. Tuy nhiên, các CTN vẫn có một quan niệm tích cực đối với KNCT. Dù đã tiếp xúc với nguồn sáng toàn tri, họ cảm thấy cần thiết phải học hỏi vì họ đã thâu hoạch được nhiều thị kiện (insight) dựa vào việc hội nhập các giá trị của KNCT vào đời sống hàng ngày.

CTN Elaine Winnernói: "Đột ngột bạn thấy mình nhìn đời trong một viễn tưởng hoàn toàn khác. KNCT đưa vào cuộc sống bạn một kích thước mới, một phẩm chất chưa từng có trước đây"

Thống kê các CTN của Charles P.Flinn cho biết tỷ lệ CTN tăng cường tình thương và có ý muốn giúp kẻ khác là 76% chấp nhận người khác là 67%, khả năng kiên nhẫn lắng nghe người khác là 71%. Đấy chưa kể những phẩm chất khác đều gia tăng rõ rệt như: sự tha thứ, khả năng biểu lộ tình thương, sự thấu cảm tâm tình kẻ khác. Nhất là sự sợ chết giảm cường độ rõ rệt (86%) tin tưởng vào kiếp sau (90%). 29% CTN không có ham giàu sang, 38% không còn quan tâm nhiều đến vật chất.

Hiện tượng cận tử (HTCT) là một ảo tưởng hay là một cơ duyên chuyển hóa?

Mặc dù số lượng các bằng chứng có tính chất khoa học ủng hộ giá trị của KNCT, nhưng cộng đồng khoa học và đại đa số công chúng phương Tây cũng còn xem KNCT là một điều kỳ bí. Các người hoài nghi cho rằng KNCT chỉ là một ảo giác có thể giải thích bằng các thuật ngữ sinh hóa và tâm lý học. Người ít hoài nghi hơn thì hoặc là chú trọng đến bản thân hiện tượng có tính chất hấp dẫn cảm quan của KNCT hoặc như nhiều nhà fundamentalists xem đó chỉ là hiện tượng lừa dối do Satan giả làm thiên thần ánh sáng.

Cho rằng KNCT là ảo tưởng là điều không thể tránh đối với thứ khoa học có một quan niệm thiển cận về vũ trụ vạn vật. Một số khoa học gia chỉ cho là "có" là "thật có", những gì có thể nắm bắt được bằng các giác quan hoặc bằng các khí cụ tăng cường năng lực cho giác quan. Cái có thật là cái có thể cân đong đo đếm, hay ít ra cũng có thể đưa vào một công thức toán học, để nhà khoa học có thể tiên liệu được sự xuất sinh và biến mất của chúng. Vì hiểu biết mà không sử dụng cho lợi ích thực tiễn thì có biết cũng như không biết, ít ra hiều về phương diện kỹ thuật. Thật ra quan niệm khoa học này cũng là lợi khí để đánh tan các thứ mê tín trong quần chúng do không quen suy tư theo lối khoa học.

Biên giới giữa cái ảo và cái chân trong một số trường hợp không dễ gì phân định được: "Y khoa ghi nhận rằng ở những bệnh nhân trong phút chốc bị thiếu Oxygen, não bộ cũng sinh ra huyễn tượng giống hệt vậy, thấy mình bị cuốn hút vào một đường hầm tối đen, rồi thoát ra ngoài ánh sáng chói lòa rực rỡ!"

- Nghĩa là không biết cái nào là near- death-experience (KNCT), cái nào là huyễn tưởng chỉ vì thiếu oxygen?

- Và rồi còn những người tuyên bố là có thể đi ngược thời gian, nhớ lại cảm tưởng của mình lúc còn trong bụng mẹ, hồi tưởng được phút chào đời. Họ cũng bị khám phá là hồi tưởng đó chỉ là tổng hợp những gì họ đọc từ sách báo, thâu lượm từ nhiều nguồn rồi lâu ngày tin đó là chyện thật sự xảy đến cho mình".

Đứng về mặt xã hội, hiện tượng sách viết về những điều huyền bí tràn lan, 95% các sách chỉ chú trọng đến khía cạnh hấp dẫn của hiện tượng vì làm cho sách bán chạy mà không dẫn giải đầy đủ đến bản chất, cũng như triết lý nằm đằng sau hiện tượng. Chính cái triết lý này mới là điều đáng cho ta lưu ý tìm hiểu, vì nó không thay đổi trong khi hiện tượng thay đổi theo khả năng người quan sát hay nhân vật trong chuyện. Có thể nói hiện tượng là ảo ảnh, còn triết lý là thực tại tinh thần. Vậy thị trường sách báo huyền bí đã không cung cấp cho người đọc một cái nhìn đúng đắn, một tinh thần quan sát khách quan đối với HTCT. Nền kinh tế hướng ngoại trục vật ở phương Tây đã sản sinh ra những đầu óc hướng ngoại. Người sống trong những xã hội như vậy, khi đã chán ngán thì thừa bứa các tiện nghi vật chất, họ quay về tinh thần nhưng thói quen cố hữu khiến họ khó bỏ việc quá quan tâm đến bình diện sắc tướng, để khám phá được cái chân tánh bất biến, cái "Bổn lai vô nhất vật". Chỉ cái "bổn lai" này mới thật sự có, tuy nó vẫn không hề và chưa hề ly cách với cái thực tế thiện ác chân giả lẫn lộn thường ngày.

Các nước phương Đông cũng không hơn gì các nước phương Tây. Chỉ một thiểu số các tu sĩ Phật giáo dày công tu luyện mới đạt được cuộc sống hài hòa cả hai mặt tâm và cảnh. Còn thì đa số quần chúng do vật lộn miếng cơm manh áo do thiếu nghiên cứu học hỏi, thiếu thầy sáng bạn lành, nên cũng đến với tôn giáo , không phải để giác ngộ giải thoát mà để được an ủi, để cầu xin hay hy vọng. HTCT chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng ở Việt Nam, và ít người nghi ngờ hoặc hiểu biết HTCT thực chỗ nào, ảo chỗ nào. Theo quan điểm nhà Phật thì HTCT hoặc ánh sánh trong HTCT không phải là một kinh nghiệm lạ lùng gì đối với người tu, mà là ánh sáng trí tuệ của chư Phật, ánh sáng do phước báo và tu thiền định ,..v.v.. có điều ánh sáng nào cũng là tứ chứ không phải là thể. Nên người theo Phật giáo hiểu ánh sáng từ quan điểm của thế, không tự chấp vào khía cạnh hữu-vô-chơn-giả của nó mà chỉ sử dụng ánh sáng như một phương tiện để thăm dò nội tâm trong quá trình phản bổn hoàn nguyên.

Ý kiến bạn đọc
14/03/201706:47
Khách
Tôi tin vào luật nhân quả, tôi tin vào phật pháp,và tôi tin khi chết không phải là hết .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2010(Xem: 9271)
Đức Phật đã nói rằng trong tất cả những mùa khác nhau để cày cấy, mùa thu là mùa tốt nhất, trong tất cả những loại nhiên liệu để đốt, thì phân bò là tốt nhất, và trong tất cả những loại tỉnh giác khác nhau, sự tỉnh giác về sự vô thường và cái chết thì hữu hiệu nhất. Cái chết là điều nhất định, nhưng khi nào nó giáng xuống thì bất định. Nếu chúng ta thực sự đương đầu với sự việc, chúng ta không biết được cái gì sẽ tới trước – ngày mai hay cái chết. Chúng ta không thể hoàn toàn quả quyết rằng người già sẽ chết trước và người trẻ còn ở lại phía sau.
04/08/2010(Xem: 3781)
Vào ngày 23 tháng 02 năm 2008, Hòa Thượng Thánh Nghiêm có cuộc nói chuyện với đức cha thiên chúa giáo Đơn Quốc Tỉ về quan điểm sinh tử. Hôm nay, Hòa thượng đã xã báo an tường, thu thần thị tịch, để tỏ lòng tưởng niệm đến cố giác linh Ngài, Biên tập viên Minh Bửu đã biên dịch lại cuộc đối thọai này.
04/08/2010(Xem: 4441)
Chết là chủ đề, hầu hết mọi người không muốn nghe, không muốn bàn đến hoặc nghĩ đến. Tại sao như vậy? Và cho dù, chúng ta thích hoặc không thích, thì mỗi chúng sẽ phải chết trong một ngày nào đó. Thậm chí trước khi đối mặt với cái chết của bản thân, chúng ta sẽ đối mặt với những cái chết của người khác ( người trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…) Chết là điều sẽ xảy ra, là phần của cuộc sống, vì vậy tốt nhất là chúng ta nên đón nhận nó với quan điểm tích cực hơn là sợ hãi và phủ nhận nó. Cuốn sách “ Chuẩn bị cho cái chết và giúp đỡ người chết ” được dịch từ nguyên tác của Sangye Khadro, sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về cái chết./.
04/08/2010(Xem: 7279)
Đối với đa số, cái chết thường được quan niệm như một vách ngăn giữa hai thế giới: người mất–kẻ còn, hay cõi âm và dương thế. Trong cái nhìn của đạo Phật, cái chết được xem là một phần tự nhiên của cuộc sống. Trước sự ra đi của người thân, nhiều người thường rất đau buồn, đôi khi quên đi những sự chăm sóc và giúp đở cho người đã khuất một cách thiết thực và ý nghĩa. Nhân mùa Vu Lan–Báo hiếu PL.2546-2002, NSGN giới thiệu cùng bạn đọc về lời của một người ở thế giới bên kia, nguyên giáo sư Đại Học Y Khoa Geneve (Thụy Sĩ) với các con của ông, và vài gợi ý về phương pháp chăm sóc, giúp đở người thân trong tình trạng đặc biệt: ốm đau nặng hoặc lâm chung...
04/08/2010(Xem: 3959)
Phật giáo trả lời khẳng định. Phật giáo cho rằng tất cả chúng sinh, trừ các bậc đã giải thoát khỏi sinh tử (các vị A La Hán của tiểu thừa giáo) hay là các bậc đã tự chủ đối với sinh tử (các bậc thánh Bồ Tát của đại thừa), còn thì tất cả đều ở trong vòng sinh tử luân hồi.
04/08/2010(Xem: 5236)
Là con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ. Do đó, chúng ta thường tránh né nghĩ về- quá trình đi đến- cái chết của chúng ta. Sogyal Rinpoche nói rằng, chúng ta hoặc trốn chạy cái chết, hoặc chúng ta thờ ơ không nghĩ về nó và cho đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, Rinpoche nói, sự chết đối với chúng ta lại là giây phút quan trọng nhất trong đời sống của mình. Rinpoche (tiếng Tây tạng có nghĩa là:“vật báu” ) là tác giả của cuốn sách “Tạng thư sống chết”. Cuốn sách này đã được bán 1 triệu 500 bản ngay lần xuất bản đầu tiên và gần đây đã được tái bản lần thứ 10.
04/08/2010(Xem: 6380)
"Đời sống mong manh, chết là điều chắc chắn" Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
04/08/2010(Xem: 7350)
Trong những lần trước, chúng ta đã tìm hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đã chết rồi hồi sinh (Near death experience). Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần. Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống mãi mà cũng không no. Có l điều này ám chỉ những vong linh còn nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng vì không còn thể xác để thỏa mãn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia thì đay là một cõi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cõi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cõi trần như dục vọng, sự quyến luyến, lòng ham ăn uống hay đòi hỏi xác thịt.
05/05/2010(Xem: 11810)
Đại lễ Kỳ Siêu ngày 18 tháng hai năm Giáp Ngọ tại chùa Phật Ân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567