Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính luân lý của việc tạo sinh

08/04/201319:20(Xem: 4595)
Tính luân lý của việc tạo sinh

Giới Thiệu Bài Mới

Tính Luân Lý Của Việc Tạo Sinh

Phó Tế Nguyên Văn Tâm, DCCT

Nguồn:Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 77 năm 2002


1. Dữ kiện



Phương pháp thụ tinh nhân tạo đã có từ năm 1776 do tu sĩ Lazzaro Spallanzani (1729 - 1799) áp dụng cho thú vật và đã thành công mỹ mãn. Thế kỷ 19 và 20 đã áp dụng rộng rãi phương pháp thụ tinh nhân tạo. Ngày nay, ở Mỹ có 95% súc vật được thụ tinh nhân tạo. Nhưng, công nghệ sinh sản chỉ thực sự bắt đầu phát triển từ năm 1950 khi khoa học thành công trong việc làm đông lạnh tinh dịch bò đực ở 79oC để thụ tinh với bò cái. Rồi đến ngày 26.7.1978, tại Anh Quốc, khoa học tiếp tục thành công khi cho ra đời đứa bé đầu tiên của thế giới mang tên Louise Brown từ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tới năm 1990 đã có tới 15.000 trẻ được sinh ra theo phương pháp này.

Tại Việt nam, ngày 19.8.1997, Bộ Y tế Việt Nam đã có quyết định chính thức cho phép bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ, phối hợp với bệnh viện Archet 2 ở Nice - Pháp, thực hiện công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Lúc bấy giờ, tuy có hàng ngàn người gởi thư đến bệnh viện Phụ sản với sự mong mỏi có được một đứa con, nhưng Bệnh viện chỉ mới bước đầu nhận khoảng 100 cặp vợ chồng để theo dõi và áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Và 20 năm sau khi đứa bé Louise Brown sinh ra, thì tại Bệnh viện Từ Dũ, Sài-gòn, ngày 30.4.1998, ba em bé đầu tiên cũng đã chào đời theo phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Tính đến tháng 11.2001, tại Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ đã có 414 em bé được sinh ra theo phương pháp này.

Nhưng, năm 1997 là một có䴠mốc mà nghành y-sinh học đã gây chấn động và làm bàng hoàng cả thế giới qua một bản tin, đó là vào ngày 24.12.1997, tiến sĩ Ian Wilmut của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Roslin thuộc Ai-len, công bố trên tờ báo Nature một bản tin dật gân: Một con cừu bảy tháng tuổi có cơ cấu sinh học giống hệt một con cừu khác, đã được tạo ra và nuôi dưỡng bằng phương pháp sinh sản vô tính (Cloning).

Phương pháp mà các khoa học gia đã thực hiện tạo sinh vô tính được tiến hành qua 5 giai đoạn:

1. Lấy tế bào từ tuyến vú của một con cừu cái có tên là Finn Dorset để nuôi sống trong một ống nghiệm.

2. Lấy trứng của một con cừu cái khác có tên là Blackface, rút bỏ nhiễm sắc thể di truyền (AND) để biến cái trứng đó thành một trứng trống rỗng.

3. Bằng xung điện kết hợp tế bào của Finn Dorset và trứng rỗng của Blackface để thành một phôi thai.

4. Cấy phôi thai này vào tử cung của một con cừu cái thứ ba.

5. Con cừu cái này mang thai và đẻ ra một con cừu con giống hệt cừu mẹ Finn Dorset.

Con cừu con được tạo sinh ra bằng phương pháp sinh sản vô tính có tên là Dolly, đúng là tên của cô ca sĩ nhạc đồng quê của Mỹ, Dolly Parton. Tiến sĩ Wilmut cho biết trong 23 năm, với 277 lần thí nghiệm, ông đã tạo được 29 phôi sống được hơn sáu ngày rồi bị chết. Duy nhất có con cừu Dolly được sinh ra. Ông nói rằng nếu pháp luật cho phép, bằng bất cứ tế bào nào của cơ thể con người như từ máu, da, thịt, phèo, phổi, tim, gan... phương pháp sinh sản vô tính có thể tạo ra những con người như bản sao của chính mình, và có khả năng tạo ra hàng loạt theo ý muốn. Những tế bào còn tốt của những xác ướp có thể được nhân bản và làm tái xuất hiện những vua chúa tiền nhân.

Tiếp theo, điều đáng chú ý nhất là ngày 25.11.2001, một công ty tư nhân, gọi là Advanced Cell Technology có trụ sở ở tiểu bang Massachusetts - Hoa Kỳ, tuyên bố trên truyền hình là họ mới thực hiện phương pháp sinh sản vô tính một phôi người đầu tiên (the first human embryo). Ðiều này đã gây một chấn động trên thế giới, gồm cả đời lẫn đạo. Ngay lập tức, Tòa Thánh Vatican, và Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã lên tiếng chỉ trích và cảnh báo việc làm thiếu tính cách đạo đức của công ty nói trên. Tất cả các sứ điệp trên được ghi lại đầy đủ trong bản tin của Zenith News, phát hành hôm 26.11.2001 - số ZE01112602 và ZE01112606.

2. Những phản ứng của thế giới



Khi con cừu ra đời bằng phương pháp vô tính, thế giới đã có những phản ứng khi lo ngại người ta sẽ áp dụng phương pháp sinh sản vô tính cho con người. Ngày 11.3.1997, Hội Ðồng Âu Châu đề nghị các Bộ trưởng Ngoại Giao trong khối sớm đưa ra văn bản cấm sinh sản vô tính. Văn bản này là phụ bản kèm theo Công Ước Âu Châu về quyền con người sinh-y-học và được ký chính thức ngày 4.4.1997 tại Tây Ban Nha.

Tổ chức Y Tế Thế Giới WHO lên án và xem xét lại vấn đề này vào ngày 25.4.1997 nhân dịp họp tại Genève.

Trong tờ Nouvel Observateur ra ngày 12.3.1997, Giáo sư Jean Fz. Mattei là nhà di truyền học thuộc Ủy Ban Ðạo Ðức của Pháp đã phát biểu rằng: "Ðiều kỳ diệu là một khi người ta càng đi sâu vào lãnh vực nguyên tử, sinh học, di truyền học của loài người, thì lại càng sáng tỏ hơn một chân lý rằng con người không phải là một hệ thống máy móc. Khi người ta thay đổi một quả tim, một đôi mắt, bộ ngực,... thì vẫn không đụng chạm đến nhân tính. Nhân tính kỹ thuật không thể dập tắt, thay đổi hay nhân ra hàng loạt được. Nhân loại là cái gì còn lại sau khi đã loại bỏ hết những gì thấy được, thay đổi được"

Trả lời câu hỏi: "Vì đâu con người sợ hãi những bản sao?", giáo sư Mattei nói: "Tôi nghĩ rằng không thể cấm đoán một kỹ thuật như vậy. Các bộ luật làm ra vì mục đích lâu dài, còn kỹ thuật thì phát triển không ngừng. Cho ra đời các điều luật chỉ để chữa cháy thì không cần thiết. Ðiều cần làm ngay là ngăn chặn những nguy cơ lạm dụng công nghệ. Nhân bản ra hàng loạt hoàn toàn trái với quan niệm của tôi và vấn đề nhân cách". Hãng tin CNN đã thăm dò ý kiến trong số 1005 người thì chỉ có 7% đồng ý cho áp dụng sinh sản vô tính cho con người; 91% không đồng ý; 19% cho rằng phương pháp này không trái ý Chúa; 74% cho là trái ý Chúa.

Tờ Time, số phát hành ngày 19.2.2001 nói rằng hiện nay, ý kiến chung ở Hoa kỳ không tán thành việc phát triển dòng vô tính. Mới đây, một cuộc trưng cầu dân ý cho thấy rằng 90% những người trả lời cho rằng phát triển dòng vô tính là một ý kiến sai lầm. Theo thông tấn AFP, ngày 12.3.1997 đã xảy ra cuộc tranh cãi về việc sinh trai hay gái theo ý muốn, do bác sĩ Rainsbusy chủ trương, bảo đảm 100% với giá cả 16.000 USD. Người ta đã lên án bác sĩ này là hạng người vô đạo đức, hạng người đốt nhà thờ, làm mất sự quân bình phái tính và cướp quyền của Ðấng Tạo Hoá.

Tờ New York Times cũng nghiên cứu vấn đề này trong số ra ngày 25.3.2001 và theo bác sĩ Brigid Hogan, một giáo sư về sinh học tế bào thuộc Trung Tâm Y Khoa Ðại Học Vanderbilt ở Nashville, bang Tennessee và là một điều tra viên của Viện Y tế Howard Hughes thuộc Hoa Kỳ, thì "đứng về phương diện đạo đức học, chúng ta không thể nào bênh vực được cho phát triển dòng vô tính con người trong hoàn cảnh hiện nay."

Tờ Guardian tường thuật hôm 29.3.2001 rằng một khoa học gia khác, ông Ivan Wilmut, nhân vật hậu thuẫn cho cuộc phát sinh con cừu Dolly bằng dòng vô tính, đã lên án việc áp dụng dòng vô tính trên con người vì tỷ số thất bại rất cao khi áp dụng trên súc vật. Ông Wilmut nói: "Thật là vô cùng thô bạo đối với các bà mẹ và con của họ". Trong một bài đăng trên tập san Science ở Hoa-kỳ, Ông Welmut tố cáo dự định ứng dụng phát triển dòng vô tính trên con người của những chuyên gia về hiếm muộn Ý là Antinori và Hoa-kỳ là Zavos. Ông Wilmut cảnh cáo rằng, bốn năm thử nghiệm trên súc vật đã cho thấy kỹ thuật phát triển dòng vô tính còn có nhiều thiếu sót gây nên một số sẩy thai và tật bẩm sinh khổng lồ và không có lý do nào để tin rằng hậu quả của phát triển dòng vô tính trên con người sẽ khá hơn.

Ông Daniel Callahan, sáng lập viên Trung Tâm Sinh Ðạo Ðức Học đầu tiên ở New York vào thập niên 1960, đã khuyến cáo: "Mọi kỹ thuật can thiệp vào vi tử đều liên hệ đến luân lý đạo đức. Việc sản sinh vô tính tế bào gốc lấy từ bào thai xem như là quả bom nguyên tử... Vì thế, nghiên cứu trong vòng luân lý đạo đức đáng được kính trọng. Nhưng, những cuộc nghiên cứu tìm cách tránh né khía cánh đạo đức luân lý, hứa suông những điều tốt đẹp, thì không đáng cho chúng ta kính trọng. Mọi nghiên cứu về con người dù là ở giai đoạn nào, bào thai, sơ sinh hay người lớn, bắt buộc chúng ta phải xem xét và đối xử con người như một nhân vị, tôn trọng phẩm giá và nhân quyền của nó"

Tại nước Ðức, ngày 30.11.2001, nhiều đại diện chính phủ Ðức đã lên tiếng phản đối việc thử nghiệm tạo phôi thai người bằng nhân bản vô tính của Viện Công Nghệ Sinh Học ACT của Mỹ, đứng đầu là bà Edelgard Bulmahn, Bộ trưởng bộ nghiên cứu liên bang Ðức. Hiện nay, ở Ðức đã có đạo luật cấm tất cả các hình thức nhân bản tế bào phôi, kể cả việc nhập các tế bào phôi thai phục vụ y học và nghiên cứu khoa học.

Tại Ca-na-đa, ngày 4.2.2002, Viện nghiên cứu y tế Ca-na-đa đã công bố những qui định mới cấm nhân bản vô tính phôi người. Qui định mới cũng cấm các nhà khoa học Ca-na-đa nhân bản phôi người hoặc tạo ra các phôi trong phòng thí nghiệm với mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, qui định mới lại cho phép sử dụng những tế bào phôi người đã có sẵn và những phôi bị loại bỏ để nghiên cứu tế bào mầm, nhưng với điều kiện là phải được sự đồng ý của cha mẹ phôi thai.

Việc tổng thống Mỹ, George W. Bush, bằng lòng thỏa thuận cho phép sử dụng ngân quỹ liên bang để tài trợ cho việc nghiên cứu hơn 60 kiểu tế bào gốc khác nhau đã được thâu hoạch từ các phôi (embryos), do phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Mục đích nguyên thủy của các chuyên gia khi tạo nên các phôi này, là nhằm để cấy cho các cặp vợ chồng hiếm muộn muốn có con, nhưng vì còn số phôi sản xuất quá nhiều nên đã trở thành thặng dư, và đã được đông lạnh trong một thời gian lâu dài, do đó đã được các chuyên gia nơi phòng thí nghiệm quyết định sử dụng để lấy các tế bào gốc, thuộc nhiều loại khác nhau. Nhưng quyết định của tổng thống Bush đã gây nên một sự bất bình trầm trọng giữa Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ và Vị Nguyên thủ quốc gia, được các cử tri Công Giáo phần đông ủng hộ trước đi đắc cử. Ðại diện cho Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, Ðức giám mục Joseph Fiorenza, thuộc Tổng Giáo Phận Galveston-Houston, Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã phát biểu như sau:

"Lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước Hoa Kỳ, chính phủ liên bang đồng ý ủng hộ việc nghiên cứu, mà hệ quả của nó là việc hủy diệt những con người vô phương kháng cự, nhằm mục đích đem lại lợi ích cho kẻ khác. Quyết định này cho phép các công ty, các dịch vụ nghiên cứu tư nhân tại quốc gia của chúng ta, gia tăng phát triển sự bất kính đối với sự sống con người. Cho nên, chúng tôi cầu nguyện và hy vọng rằng tổng thống Bush sẽ trở về lại với nguyên tắc chính trực, nhằm chống lại những cách thức hành xử coi sự sống con người không hơn gì những vật thể, có thể được tận dụng cho các mục đích nghiên cứu và sau đó thì bị hủy diệt".

Tại Nước Anh, ngày 20.6.2001, Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc đã đưa ra lời kêu gọi rằng chỉ có sách lược bãi bỏ hoàn toàn dòng sinh vô tính (cloning) trên khắp thế giới mới ngăn cản được việc tạo sinh ra trẻ em theo dòng vô tính mà thôi. Dựa vào những thí nghiệm được trình bày cho Ủy Ban Thượng Viện Quý Tộc House Of Lords về nghiên cứu tế bào, Hội Hoàng Gia nói rằng: "Cần có sự bài trừ cấm cản trên bình diện quốc tế mới là cách giảm thiểu cơ hội cho những cuộc thí nghiệm tạo sinh dòng vô tính tại các quốc gia khác".Tuy nhiên, Hội Hoàng Gia cũng nói trong bản tường trình rằng việc cấm đoán này dành đặc quyền miễn trừ cho phép thí nghiệm nghiên cứu trị liệu gọi là "therapeutic cloning", có nghĩa là tạo sinh dòng vô tính những phôi thai, rồi giết đi trước khi phôi thai hoàn toàn phát triển, nhằm lấy tế bào gốc đó dùng cho việc trị liệu thay bộ phận. Về điểm này, các tổ chức phò sự sống như các nhóm Công Giáo cũng kịch liệt lên án và chống đối.

Giáo sư Richard Gardner, là người đứng đầu Hội Hoàng Gia Royal Society soạn bản tường trình nêu trên, nói rằng: "Kinh nghiệm của chúng tôi với loài vật cho thấy hiện rõ ràng có nguy cơ trầm trọng tạo nên những cá nhân tàn tật bất toàn nếu có ai đó muốn cấy bào thai dòng sinh vô tính vào trong lòng bà mẹ cho phát triển". Và ông còn cảnh cáo rằng: "Tiến trình thụ thai theo dòng sinh vô tính thì thực là niềm mong đợi không thực tế chút nào... Thành quả của tạo sinh vô tính không bao giờ có thể thay thế con người được cưu mang trong tình yêu tự nhiên được cả". Bác sĩ nói thêm: "Ðang khi tạo vật do dòng sinh vô tính về thể lý có thể rất giống với bản mẫu, thế nhưng hai đương sự này sẽ khác biệt ít nhất là không như hai người sinh đôi đồng dạng, trên bình diện cá nhân và những đặc tính về tâm thần"

Cũng tại Anh Quốc, ngày 22.11.2001, Bộ trưởng Y tế Anh, Alan Milburn, đã công bố dự luật mang tên "Ðạo luật sinh sản vô tính người, cấm việc cấy ghép vào cơ thể người phụ nữ những tế bào phôi được tạo bởi các phương pháp ngoài thụ tinh. Người nào vi phạm có thể chịu mức án cao nhất tới 10 năm tù giam".

Mục sư Tin Lành Allen Verhey quan ngại rằng rồi ra cha mẹ có cảm giác con cái họ là những sản phẩm được chế tạo ra như hàng hoá. Quan hệ cha mẹ và con cái sẽ mất đi tính thiêng liêng.

Học giả Donald Lopez Phật Giáo đặt ra nghi vấn về ảnh hưởng của sinh sản vô tính trong tương quan với thuyết luân hồi. Bởi vì, con người kiếp trước và con người kiếp sau giống hệt nhau thì hết đầu thai và thưởng phạt của Thượng Ðế ra sao?

Học giả Sachedia, Hồi Giáo, lo ngại về sự sinh sản này tách rời khỏi quan hệ giới tính thì không cần hôn nhân nữa mà vẫn có cho ra đời hàng loạt người giống nhau như đúc.

Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8465)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5383)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17580)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6801)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6831)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7209)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11800)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15203)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11695)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6983)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567