Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhận ra tánh của tâm chiếu soi cảnh vật và tâm liên hệ với thân

18/01/201111:43(Xem: 11666)
Nhận ra tánh của tâm chiếu soi cảnh vật và tâm liên hệ với thân

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương III
Thiền Quán

Nhận ra tánh của tâm chiếu soi cảnh vật và tâm liên hệ với thân

Điều khai thị thứ ba nhằm giúp ta nhận ra tánh của tâm năng chiếu, hay đúng hơn là tánh bất nhị (không thể tách rời) giữa tâm và cảnh vật. Ở những phần trước ta đã quán chiếu thấy rằng cảnh vật (5 trần) không hẳn là những gì thực sự hiện hữu bên ngoài và tâm năng chiếu không phải là một cũng không phải khác. Tuy nhiên ta không được khởi tâm suy nghĩ (khái niệm) rằng chúng không phải một cũng không phải khác.

Cũng vậy thân và tâm không phải một cũng không phải hai. Không thể tách rời được tánh sáng suốt ra khỏi tánh rỗng lặng, tánh năng khởi (diệu hữu) ra khỏi tánh rỗng lặng (chơn không).

Tương tựa như bóng trăng dưới nước. Nếu bảo là một, vậy khi lấy tay che nước, sao bóng trăng không còn. Nếu bảo là hai thì phải có thể tách rời bóng trăng ra khỏi mặt nước chứ?

Ngoài ra tất cả cảm giác như nóng, lạnh, v.v... cũng đều là hình ảnh (ảo tưởng); vì chưa giác ngộ được thể tánh chơn không, diệu hữu của chúng nên ta dính mắc vào, cho rằng chúng có thực bên ngoài.

Trong giấc mơ ta thấy mình có thân, chung quanh có đầy cảnh vật, tất cả đều hiện rõ ràng như có thật. Nhưng khi thức giấc, ta liền hiểu rõ chúng chỉ là những hình ảnh phát xuất từ tâm và cùng lúc trở lại làm đối tượng thấy của tâm. Không có một hiện hữu hay thực chất nào mà ta có thể chỉ định rằng đây là "thân tôi", v.v... Cũng vậy, tất cả cảnh vật cùng kinh nghiệm sống chết của cuộc đời, mà ta (do lầm tưởng) cho là hiện hữu cụ thể, đều trống rỗng (không thực sự hiện hữu như vậy).

Tất cả hình ảnh, cảnh vật đều phát xuất từ tâm. Nếu nghĩ ma quỷ có thật, chắc chắn ta sẽ thấy nó. Nếu không tin là có thì sẽ không bao giờ thấy. Một ngày nọ, Milarépa [1] đang thiền định trong một hang động, bỗng nhiên để ý thấy có lỗ nhỏ trên vách đá, liền tự hỏi không biết trong đó có hồn ma nào ở không? Khi ý nghĩ nầy vừa khởi xong, tức thì một con quỷ cái (ngáo ộp) hiện ra hỏi: "Tại sao ngài lại gọi tôi? Nếu muốn tôi đi thì hãy lắng tâm ngài xuống". Tương tựa như thế, vì ta lầm lẫn nghĩ rằng cảnh vật đều hiện hữu như những vật có thật, cụ thể "ở bên ngoài", nên ta "tin" rằng chúng thực sự hiện hữu như vậy. Tất cả hình ảnh, cảnh vật đều là bóng dáng ảnh chiếu của tâm, trống rỗng không có tự hữu, không phải là những vật hữu chất có thật "ở bên ngoài". Có nhiều vị Thầy lớn (grands Lamas) khi đến Bồ Đề đạo tràng (Bodhgaya)_ bỗng nhiên thấy nơi đây chẳng khác gì thiên đàng và dân chúng xung quanh như chư thiên. Nhưng cũng cùng nơi đây, một người ăn xin đói khát lại thấy như đang ở địa ngục. Mỗi người cảm nghiệm một thực tại khác nhau. Thí dụ khác, với một ly nước: chúng sanh ở địa ngục thấy đó là nước đồng sôi, quỷ đói thấy là máu mủ, cá thấy là nhà ở, người thấy là nước, chư thiên thấy là rượu tiên. Tất cả sự thấy ở trên chỉ là hình ảnh phát xuất từ tâm và phản chiếu trở lại tâm, thế nhưng dưới mắt ta, chúng lại ảnh hiện rõ ràng như thực có "ở bên ngoài" vậy.

Bất cứ hình ảnh nào xuất hiện trước mắt (ngón tay ta chẳng hạn), hãy tập trung tâm ý quan sát nó vài phút. Sau đó nới lỏng sự chú ý. Ban đầu những nét nhỏ còn hiện rõ nhưng sau một lát hình ảnh trước mắt mờ dần và ta cảm thấy nhàm chán không muốn tiếp tục nhìn lâu hơn nữa, hoặc hai mắt mệt mỏi bắt đầu chảy nước mắt. Nhưng nếu tập trung tâm ý nhìn trở lại thì hình ảnh đó lại hiện rõ ràng. Đến đây cần nhận thức rằng tâm (ta) và hình ảnh (đi, đến từ tâm) không phải hai vật có thể tách rời. Những hình ảnh (đối tượng của thức) sở kiến và thức năng kiến, cả hai đều là sự phát hiện của ảo giác. Một khi phát hiện thì không thể nào tách rời được; hình ảnh xuất hiện vì chúng là ảo giác của tâm, và như vậy tâm cũng chính là hình ảnh. Ngoài điều này ra, không có một cảnh vật hay hình ảnh nào có thể được xem là hiện hữu tự tánh, độc lập ngoài tâm cả.

Trước kia vì vô minh chấp trước cho rằng các pháp thực có nên không thể thấy được đi?u này. Ngày nay nhờ chặt đứt giòng tâm thức hay khái niệm chấp trước (biến kế chấp) nên nhận ra được tánh của tâm năng chiếu, năng khởi, không còn bám víu vào cảnh vật vì thấy chúng trống rỗng và trong sáng chẳng khác chi ánh sáng của Pháp thân.

Hãy an trụ trong thực tánh của hiện tại. Không cần tìm cầu an lạc, tánh Không hay Bát Nhã. Không dính mắc quá khứ, không tưởng đến tương lai cũng không suy nghĩ hiện tại. Không thiền quán bằng khái niệm ý thức. Hãy buông thả tất cả, an trụ tâm trong trạng thái tự nhiên, ngay bây giờ và ở đây. An trụ trong tánh bất nhị của chân không và diệu hữu, của an lạc và rỗng lặng, của không và thức. Khi hiểu được tánh bất nhị giữa không và có - cảnh vật tuy ảnh hiện rõ ràng nhưng không thể nắm bắt - đó là đạt được cái thấy thâm sâu về tánh của tâm năng chiếu. Tiếp tục tu tập trưởng dưỡng trạng thái này, chắc chắn sẽ gặt hái được kết quả bất khả tư nghì.

Nhận ra tánh của tâm năng chiếu (cảnh vật) là sự khai thị thứ ba (của vị Thầy) và cũng là điểm thứ bảy của Thiền Quán.

Chú thích:
[1] Một đại hành giả Du Già Tây Tạng, cũng là nhị Tổ của phái áo vải (Kagyupa) nổi tiếng là đã đạt được giác ngộ (hoàn toàn) ngay trong một đời, nhờ sự tu hành khổ hạnh, tinh tấn trên vùng tuyết lạnh của Hy Mã Lạp Sơn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/07/2011(Xem: 4047)
Khi tôi ở trong trung hữu của sinh tới chết, tôi nguyện không uổng phí thời gian; Buông bỏ lười biếng, tôi nguyện chăm chú học, thấm nhập và thiền định về giáo pháp. Tôi nguyện thực hành thiền quán, hội nhập trên đạo lộ Hiện tướng và tâm. Liên Hoa Sinh . Tử thư Tây Tạng.
13/07/2011(Xem: 4622)
Người mới tắt hơi, điều thiết yếu là không nên vội di động. Hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ít nhứt cũng ba giờ, mới được tắm rửa thay đổi y phục. Trước và sau khi chết, người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích mà lại có hại, vì làm cho kẻ mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được giải thoát. Chỉ nên gắng sức niệm Phật mới thật có ích cho vong nhơn. Nếu muốn khóc lóc, phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn cảm giác đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này rất quan hệ, rất cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
13/07/2011(Xem: 4316)
Cổ thi nói: "Ta thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa! Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!" Giữa đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho nên những kẻ có lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự bị lo toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận.
13/07/2011(Xem: 5280)
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng...
13/07/2011(Xem: 3822)
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
13/07/2011(Xem: 4559)
“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”. Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm. Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.
09/07/2011(Xem: 7388)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
01/07/2011(Xem: 9518)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
24/06/2011(Xem: 5040)
Đó là câu hỏi của một hãng Thông tấn ở phương Tây đưa ra trong một cuộc thăm dò ý kiến với đông đảo người dân ở nước Anh. Câu hỏi với tình huống giả định là một thiên thạch sắp đâm vào trái đất và bạn chỉ còn 60 phút nữa sống trên cõi đời, bạn sẽ làm gì trong 60 phút ngắn ngủi ấy…
19/06/2011(Xem: 9217)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]