Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kim Cang Quán

18/01/201111:43(Xem: 11016)
Kim Cang Quán

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương I
Dự Bị Tu Tập

Kim Cang Quán

Vajrasattva [2], Tạng ngữ: Dorjé Sempa, là một hóa thân của chư Phật dùng để thanh lọc giải trừ đau khổ, phiền não, quả báo của những nghiệp xấu, ác đã tạo. Hóa thân này có thể xuất hiện dưới nhiều hình tướng: hiền từ hoặc dữ tợn như Héruka Vajrasattva, đơn độc hoặc với một nữ phối. Sau đây là một phương thức tu tập với hóa thân Vajrasattva đơn độc.

Quán tưởng trên đầu ta, có Thầy Bổn Sư (Lama) dưới hình tướng Vajrasattva, toàn thân màu trắng, tay phải cầm một kim cang chùy (vajra) ngang giữa ngực, tay trái cầm một cái chuông ngang hông. Đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

Quán tưởng trên đảnh đầu chủng tự PAM. Sau đó chủng tự này biến thành một hoa sen trắng, ở trên có chủng tự AH, từ chữ AH xuất hiện một vành trăng tròn, ở trên có chữ HUM, chữ này từ từ biến thành một kim cang chùy 5 đỉnh, và ở giửa chùy kim cang này lại có một chữ HUM. Từ chữ HUM này phát ra nhiều đạo hào quang rồi sau đó lại thu trở về hai lần: lần thứ nhất, những hào quang này hóa hiện ra muôn ngàn trân châu quý báu cúng dường chư Phật, Bồ Tát; lần thứ hai, những hào quang này tiêu trừ tất cả đau khổ của chúng sinh.

Tiếp theo, kim cang chùy biến hình thành Vajrasattva như đã tả ở trên. Chân trái gấp lại, bàn chân đụng dưới đùi phải, và chân phải hơi duỗi xuống dưới. Ở giữa ngực có một vành trăng với một chữ HUM trắng ở trên.

Vajrasattva có một bài chú 100 chủng tự và một bài 6 chủng tự. Những chủng tự này thường được quán chiếu theo nhiều cách: hoặc theo chiều kim đồng hồ, hoặc ngược lại, hoặc quay tròn hoặc đứng yên. Riêng trong phép quán này, ta phải tụng 100.000 lần bài chú 100 chủng tự, những chủng tự này màu trắng bất động, được sắp chung quanh vành trăng theo chiều ngược của kim đồng hồ.

Sau khi quán tưởng như trên, ta tụng: "Nam Mô Vajrasattva, con thành khẩn xin ngài giải trừ tất cả chướng duyên và quả báo của những nghiệp xấu mà con đã tạo trong quá khứ". Ta cần phải phát lồ sám hối và quán niệm về bốn điều hóa giải (lỗi lầm).

Điều thứ nhất, nhớ tưởng lại những lỗi lầm đã tạo và thành tâm ăn năn. Thứ hai, nguyện không bao giờ tái phạm. Thứ ba, ghi nhớ những điều tốt như quy y, Bồ Đề Tâm, giữ giới... Thứ tư, thực hành những pháp thanh lọc, sám hối như Kim Cang quán để tiêu trừ nghiệp chướng. Nếu không hội đủ bốn điều trên thì sự sám hối chỉ là hào nhoáng bề ngoài.

Tiếp theo quán tưởng một nước cam lồ trắng chảy từ ngón chân cái bên phải của Vajrasattva, xuống tới đảnh đầu và chảy khắp toàn thân ta. Cùng lúc đó, tất cả những chướng duyên, nghiệp báo đều bị tống khứ, và toàn thân ta chỉ còn là cam lồ.

Nước cam lồ này bắt nguồn từ chữ HUM và bài chú 100 chủng tự nằm trên vành trắng ở ngực Vajrasattva, chảy xuống thấm vào thân ta.

Quán tưởng rằng từ những lỗ chân lông và chín khứu của ta, những chướng duyên thoát ra ngoài như mồ hôi và nhựa đen; bệnh tật, ốm đau thoát ra ngoài như máu mủ; tà ma, quỷ ếm, như rắn, bò cạp, nhện độc và sâu bọ. Tất cả đều chảy ra ngoài và thấm xuống đất. Bấy giờ toàn thân ta chỉ còn lại nước cam lồ trắng và hào quang.

Ta hãy quán tưởng tất cả chúng sinh cũng đều có một vị Vajrasattva ở trên đầu và đang lãnh nhận sự thanh lọc như ta.

Hài lòng, vị Bổn Sư (Vajrasattva) biến thành hào quang (rồi nhập vào ta), và quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ta và của Vajrasattva nhập một không khác. Tất cả nghiệp chướng lúc này thảy đều được tiêu trừ.

Đến đây kết thúc phần dự bị tu tập thứ hai: quán tưởng về Vajrasattva và trì tụng thần chú.

Chú thích:

[1] Sách Tây Tạng thường nói "giòng tâm thức" để chỉ định cái tâm. Vì theo các trường phái Duy Thức và Trung Quán thì tâm không phải một vật có tự tánh cố định mà là một giòng ý thức luôn trôi chảy

[2] Vajrasattva: Việt dịch là Kim Cang Tát Đỏa, cho đó là một vị Kim Cang thần hay Bồ Tát, nhưng đối với Tây Tạng thì đó là một hóa thân Phật.




 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/07/2011(Xem: 4047)
Khi tôi ở trong trung hữu của sinh tới chết, tôi nguyện không uổng phí thời gian; Buông bỏ lười biếng, tôi nguyện chăm chú học, thấm nhập và thiền định về giáo pháp. Tôi nguyện thực hành thiền quán, hội nhập trên đạo lộ Hiện tướng và tâm. Liên Hoa Sinh . Tử thư Tây Tạng.
13/07/2011(Xem: 4622)
Người mới tắt hơi, điều thiết yếu là không nên vội di động. Hoặc kẻ chết thân mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ít nhứt cũng ba giờ, mới được tắm rửa thay đổi y phục. Trước và sau khi chết, người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô ích mà lại có hại, vì làm cho kẻ mạng chung sanh niệm quyến luyến, không được giải thoát. Chỉ nên gắng sức niệm Phật mới thật có ích cho vong nhơn. Nếu muốn khóc lóc, phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy tắt hơi nhưng thức A Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn cảm giác đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải sa đọa. Điều này rất quan hệ, rất cần yếu, nên để ý ghi nhớ kỹ.
13/07/2011(Xem: 4316)
Cổ thi nói: "Ta thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa! Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!" Giữa đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho nên những kẻ có lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự bị lo toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận.
13/07/2011(Xem: 5280)
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng...
13/07/2011(Xem: 3822)
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
13/07/2011(Xem: 4559)
“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”. Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm. Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.
09/07/2011(Xem: 7388)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
01/07/2011(Xem: 9518)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
24/06/2011(Xem: 5040)
Đó là câu hỏi của một hãng Thông tấn ở phương Tây đưa ra trong một cuộc thăm dò ý kiến với đông đảo người dân ở nước Anh. Câu hỏi với tình huống giả định là một thiên thạch sắp đâm vào trái đất và bạn chỉ còn 60 phút nữa sống trên cõi đời, bạn sẽ làm gì trong 60 phút ngắn ngủi ấy…
19/06/2011(Xem: 9217)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]