Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bổn Sư Du Già

18/01/201111:43(Xem: 11504)
Bổn Sư Du Già

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương I
Dự Bị Tu Tập

Bổn Sư Du Già

Bài dự bị tu tập chót nhằm mục đích tích tụ công đức và sự gia hộ hay ban phép lành của chư Tổ. Đó là Guru Yoga.

Ở đây ta phải quán tưởng ta dưới hình dạng của một Thần Linh Quán (divinité de méditation).

Quán tưởng ở phía trên đầu là vị Bổn Sư (Lama racine) hiện dưới hình dạng thông thường hoặc của một Thần Linh Quán. Sau đó tất cả chư Tổ của giòng truyền (lignage) ngược trở lên cho đến đức Phật Vajradhara đều ngồi theo một hàng dọc hoặc chung quanh trên đầu vị Bổn Sư. Tiếp theo ta hướng về chư vị đó và cầu nguyện với lòng thành khẩn, tôn kính chân thật vô biên.

Khi lòng thành khẩn của ta tăng trưởng đến mức tột cùng, hãy giữ nguyên trạng thái đó và bắt đầu quán tưởng chư Phật, Bồ Tát, chư Thần Dakas, Dakanis, Hộ Pháp, Hộ Mạng, chư Tổ đều tan nhập vào vị Bổn Sư. Vị Bổn Sư lúc đó phải được xem là hóa thân của tất cả các vị trên.

Có nhiều loại Thần Linh Quán, đối tượng của Guru-yoga. Ta có thể quán tưởng vị Bổn Sư dưới hình dạng thông thường hoặc hình dạng Vajradhara, Marpa, Milarépa, Gampopa, Karmapa, v.v...

Tiếp theo, thực hiện sự cúng dường bên ngoài, bên trong và bí mật, cũng như bài Kinh "Thất Nguyện" (Septuple Puja).

Bài Kinh Thất Nguyện gồm: 1) Lễ lạy, 2) Cúng dường, 3) Sám hối, 4) Tùy hỷ công đức, 5) Thỉnh quý Thầy giảng pháp, 6) Thỉnh quý Thầy trụ thế, 7) Hồi hướng công đức.

Khởi tâm trở về nương tựa Tam Bảo, củng cố tâm Bồ Đề và cầu nguyện như sau: "Tất cả chúng sinh (là cha mẹ quá khứ) số lượng như hư không, xin hướng về Bổn Sư hiện thân của tam thân Phật, hãy từ bi ...".

Bài cầu nguyện trên dạy rằng phải quán tưởng vị Bổn Sư không khác đức Phật, hiện thân của Tam Bảo. Thân của ngài tiêu biểu cho Tăng Già, lời của ngài là Giáo Pháp và tâm của ngài là chư Phật. Thân, ngữ, ý của Phật chính là Tam Bảo và cũng không khác tam thân Phật. Bài tụng trên có thể được lập đi lập lại 100.000 lần hoặc hơn. Thông thường hành giả cũng tụng thêm bài kệ sáu câu của ngài Karmapa đệ nhất và một triệu lần bài chú của ngài: "Con thành tâm cầu nguyện đến ngài, vị Thầy tôn kính. Xin ngài gia hộ cho con khiến:

1) Tâm con không còn chấp chặt vào một cái "Ta thường hằng".
2) Giòng tâm thức của con có khả năng thấy rằng tất cả ý tưởng thế gian đều là ảo ảnh.

3) Tất cả ý nghĩ trái ngược Phật pháp đều ngưng khởi.

4) Con hiểu rằng bổn tâm vốn bất sanh (diệt).

5) Tất cả thành kiến sai lầm (nhị biên) đều tiêu tan.

6) Con thấu triệt các pháp đều là Pháp thân."
Sau đó vị Thầy (Lama) tan nhập vào ta. Quán tưởng rằng thân, ngữ, ý của ngài và Tâm ta trở thành một, không hai, không khác. Hãy trụ trong trạng thái bất nhị đó càng lâu càng tốt.

Sau khi tụng chú xong, quán tưởng vị Bổn Sư đang truyền cho ta bốn phép điểm đạo Mật giáo (initiations tantriques):

Trước hết từ trán vị Bổn Sư, một hào quang trắng phóng ra bay vào trán ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc thân nghiệp. Đây là điểm đạo sơ khởi, giúp ta tu tập các pháp trong giai đoạn tăng trưởng và gieo những chủng tử của sự thành tựu Hoá thân.

Từ cổ vị Bổn Sư, một hào quang đỏ phóng ra bay vào cổ ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc khẩu nghiệp. Đây là điểm đạo bí mật, giúp ta quán chiếu về giai đoạn thành tựu các pháp dẫn chuyển những luồng khí lực vi tế trong thân và gieo những chủng tử của Báo thân.

Từ tim vị Bổn Sư, một hào quang xanh lơ phóng ra bay vào tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não thuộc ý nghiệp. Đây là điểm đạo trí huệ, giúp ta tiến tu các pháp siêu nhập và gieo những chủng tử của Pháp thân.

Cuối cùng, cả ba hào quang trắng, đỏ, xanh từ ba nơi trên người vị Bổn Sư đồng phóng ra bay vào trán, cổ, và tim ta, tẩy trừ tất cả phiền não của ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đây là điểm đạo linh âm tối thắng, giúp ta thành tựu Đại Thủ Ấn, hay giai đoạn vô tướng và gieo những chủng tử của Thể tánh thân.

Sau lễ điểm đạo, tất cả chư Tổ của hệ phái tan nhập vào vị Bổn Sư, và vị này cũng tan nhập vào ta.

Hãy trụ trong trạng thái bất nhị và vô niệm này. Sau đó hồi hướng công đức cầu cho tất cả chúng sinh sớm mau giác ngộ.

Nếu tinh tấn tu tập pháp này ta sẽ nhận được nhiều sự gia trì, ủng hộ của chư Tổ, khiến ta sớm thâm nhập được Đại Thủ Ấn.

Đến đây kết thúc phần dự bị tu tập đặc biệt của Kim Cang thừa: Bổn Sư Du Già.




 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2010(Xem: 5488)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của Lạt-ma Dagpo Rimpoché tại ngôi chùa Tây tạngKadam Tcheuling tọa lạc tại Aix-En-Provence miền nam nước Pháp, vào ngày 23tháng 3, năm 2003. Thôngdịch viên : Marie-Stelle Boussemart. Ghi chép : Laurence Harlé, MichelLanglois, Cathérine Baguet, Marie-Stella Boussemart
21/10/2010(Xem: 5536)
Khi Đức Phật còn là thái tử, trong lúc đi dạo chơi, Ngài đã trông thấy những cảnh khổ đau của kiếp sống con người là bệnh hoạn, già yếu và chết. Từ đó, cuộc sống khổ đau và tạm bợ của con người đã khiến cho thái tử suy tư rất nhiều và thôi thúc Ngài quyết tâm đi tìm cuộc sống an lạc, vĩnh hằng, bất tử. Trải qua năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh chốn rừng già và sau 49 ngày Thiền định ở Bồ đề đạo tràng, Đức Phật đã nhận thấy rõ đặc tính của cuộc sống con người nói riêng và của muôn vật, muôn loài nói chung ở trong thế giới sanh diệt là vô thường (Anicca), khổ (Dukkha) và vô ngã (Anatta).
13/10/2010(Xem: 4200)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ. Mọi người đồng ý rằng bạn nên khởi lòng bi mẫn. Vấn đề là, cách lòng bi mẫn chuyển thành những hành động cụ thể thì lại không mấy giống nhau. Đối với một số người, bi mẫn có nghĩa là kéo dài mạng sống càng lâu càng tốt; nhưng đối với một số người khác, bi mẫn là chấm dứt đời sống - thông qua việc trợ tử - khi mà phẩm chất đời sống của người bệnh không còn là bao. Và không có ai trong hai nhóm này xem nhóm khác là có lòng bi mẫn thực sự. Nhóm trước xem nhóm sau là tội phạm; còn nhóm sau xem nhóm trước là tàn nhẫn và độc ác.
13/10/2010(Xem: 6140)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
13/10/2010(Xem: 3993)
Gần đây, trên thế giới nhất là tại Mỹ, dư luận bị kích động vì vài người y sĩ công khai tham gia hành động "trợ tử" (Euthanasia), và chấp nhận trách nhiệm, tự ý đưa tay vào còng của cảnh sát, hầu như thách đố pháp luật. Dư luận quần chúng rất phân tán, kẻ chê vô lương, người thì yểm trợ và đặc biệt là các tôn giáo lớn trong nước đều lên tiếng xác định lập trường. Câu hỏi ta tự đặt ra để tìm hiểu là lập trường của đạo Phật trong một vấn đề nặng về đạo đức, triết lý như vấn đề trợ tử, đã được đức Phật ngày xưa và kinh điển của Ngài để lại minh định như thế nào.
11/10/2010(Xem: 7510)
Hạnh phúc hay đau khổ là số phận chung của mọi chúng sinh, nhất là con người, và theo quan điểm Phật giáo thì đây không phải là phần thưởng hay hình phạt do Thượng Đế ban cho một sinh linh đã làm điều thiện hay điều ác. Tín đồ Phật giáo tin vào một định luật tự nhiên, gọi là “ luật nhân quả”, áp dụng chung cho tất cả mọi hiện tượng trong thế giới này. Tín đồ Phật giáo không tin vào một Đấng Thượng Đế toàn năng, và do đó một Đấng Thượng Đế như vậy, và ngay cả Đức Phật đại từ bi cũng không thể ngăn cản được định luật này.
07/10/2010(Xem: 5482)
Các lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này. Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh - andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh - oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
06/10/2010(Xem: 10507)
Thưa thớt vài chục nóc nhà xong thôn Tân Mỹ (Thừa Thiên Huế) lại có cả trăm ngôi mộ được xây dựng công phu, hoành tráng như một thành phố ma với chi phí lên tới vài ba tỷ đồng cho một ngôi.
03/10/2010(Xem: 7766)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
01/10/2010(Xem: 11110)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]