Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời tựa

18/01/201111:43(Xem: 10144)
Lời tựa

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Lời tựa

Từ lâu các triết gia, đạo gia và chúng ta, hàng phật tử, đều đã băn khoăn tìm hiểu tâm, vì tâm là đầu dây mối nhợ sinh ra các pháp: "Tâm sanh các pháp đều sanh, tâm diệt các pháp đều diệt". Nhưng tâm là gì? Hoạt động của nó ra sao? Đó là những câu hỏi rất thường được đặt ra. Như một tấm gương, tâm có thể cho ta thấy tất cả hình ảnh của sự vật, nhưng khi muốn tìm lại, thì không thể thấy. Nó tựa như vô hình vậy.

Đôi khi cái tấm "gương tâm" này như bị mờ đục, có lúc lại nhu trong và sáng tựa như không có gì hiện ở trong, hoặc có lúc nó lại bị những ý niệm nổi lên ào ào như những cơn gió lốc. Mặc dù trong tâm hiện ra những hình ảnh, âm thanh hoặc những ý niệm hay bất cứ cái gì đi nữa, nó vẫn luôn luôn có một tánh hiểu biết (nói cho dễ hiểu là một cái biết) trong sáng tiềm tàng. Nếu ý thức được sự hiện hữu của "cái biết" này, ta sẽ không khó chịu hay ưa thích đối với những cái gì hiển hiện trên mặt "gương tâm". Một khi nhận ra cái tánh ngàn xưa (bổn tánh) của gương này thì bất cứ việc gì xảy đến, ta cũng không ngại, vì ta chính là "yên lặng và trong sáng". Nhưng nếu không ý thức được điều trên thì những vọng niệm, ảo ảnh (vốn trống rỗng và không thực) sẽ trở nên thực có và do đó chúng tạo cho ta muôn điều sợ hãi, lo âu cũng như ham muốn và đau khổ.

Đại Thủ Ấn, Mahamudra, là một phép thiền quán khảo sát nội tâm, nhằm loại trừ tất cả ảo tưởng và phú chướng từ đời vô thỉ đã bao phủ dầy đặc bản tâm. Tuy nhiên trước khi thực sự tiến bước trên con đường quán chiếu, hành giả cần trải qua một sự "dự bị tu tập" (pratiques préliminaires). Có dự bị kỹ càng thì tiến tu mới thuận lợi và chắc chắn.

Điều trước tiên là phải ý thức rằng có được thân người là một điều hy hữu. Trong các Kinh, đức Phật vẫn thường nhắc nhở: thân người khó được, nhưng lại dễ mất. Cái chết luôn luôn đến quá sớm, quá bất ngờ. Khi nó đến thì ngay cả gia đình, bạn bè, tài sản, danh vọng đều bất lực không cứu giúp gì được cho ta, chỉ có những hành động tạo tác trong lúc sống là đi theo ta như hình với bóng mà thôi. Do đó, trong lúc thân thể còn khoẻ mạnh, lưng chưa còng, mắt chưa lòa, ta hãy cố gắng sống một cuộc đời ý nghĩa bằng cách đem lại an vui và hạnh phúc cho mọi người, thương yêu và thông cảm lẫn nhau. Được vậy, ngày ra đi ta có thể mỉm cười với tâm hồn thanh thản.

Tuy nhiên theo luật nhân quả thì ta vẫn phải tái sanh. Còn tái sanh là còn bị chi phối bởi sinh, già, bệnh, chết. Dù tái sanh làm trời, người, vua, thú vật hay quỷ đói đi nữa, ta vẫn còn bị đau khổ ràng buộc. Sự khao khát một chân hạnh phúc luôn luôn bị ngăn che bởi tham dục, sân hận và tâm hồn quá ích kỷ của ta. Điều đầu tiên chúng ta cần làm là suy ngẫm, quán chiếu về sự đau khổ vô thường của cuộc đời, sau đó quyết tâm mãnh liệt phát nguyện giải thoát khỏi luân hồi.

Tiếp theo ta quán chiếu rằng không phải chỉ có riêng một mình ta chịu đau khổ, mà tất cả chúng sanh đều như vậy. Ngay cả một con bọ nhỏ cũng cố gắng vùng vẫy chạy thoát khi bị lùng bắt. Hãy nghĩ lại xem, đời sống và hạnh phúc của ta đều liên quan và tùy thuộc rất nhiều người, do đó ta không thể làm ngơ đi tìm hạnh phúc cá nhân và bỏ quên những người khác. Suy nghĩ được vậy mới có thể khởi lòng thương yêu và cứu giúp tất cả mọi người. Khởi tâm xong chưa đủ, ta cần phải thực hiện. Nhưng làm sao thực hiện được khi chính bản thân ta chưa trừ được tham sân si, phiền não, chưa làm chủ được thân tâm. Do đó điều quan trọng thứ hai là làm sao đạt được giác ngộ giải thoát một cách nhanh chóng hầu cứu giúp tất cả chúng sanh. Muốn vậy ta cần phát Bồ Đề Tâm (Bodhicitta), tức phát nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh.

Hai điều trên, phát nguyện giải thoát khỏi luân hồi và nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh, là những nền tảng căn bản nhưng tối quan trọng trong việc chuẩn bị và chuyển hướng tâm linh cho hành giả. Sau khi phát nguyện mạnh mẽ, ta có thể bước sang phần thực tập sơ khởi, hay dự bị tu tập. Phần này nhằm mục đích thanh lọc, tiêu trừ những nghiệp chướng thô kệch, giúp ta tích tụ thêm nhiều công đức để sau này ít gặp trở ngại và tiến nhanh đến đạo quả. Phần thực tập sơ khởi đầu tiên là lạy Phật. Trong lúc lạy Phật, ta phải quán chiếu luôn sự quy y Tam Bảo, khởi lòng tin chắc rằng nương về Tam Bảo là phương tiện duy nhất giúp ta thoát khỏi sự lặn hụp trong đau khổ của luân hồi. Lạy Phật cũng giúp ta chừa bỏ tánh cống cao ngã mạn, và sự kham nhẫn chịu đựng sẽ tẩy trừ bớt những nghiệp xấu của ta.

Bài thực tập kế là thiền quán về Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva méditation). Pháp này cũng nhằm tẩy trừ nghiệp xấu. Tiếp theo sau là cúng dường Mạn Đà La (offrande du Mandala), phần này giúp ta tích tụ rất nhiều công đức. Cuối cùng là bài tập về Guru Yoga, phần này củng cố mối giây liên hệ giữa ta với vị Thầy (Lama hay Guru) và tất cả những vị Tổ trong tông phái. Qua trung gian bài thực tập này ta tiếp nhận được sự chân truyền và gia hộ của chư Tổ.

Sau khi hoàn tất phần tu tập dự bị cũng như nghe giảng giáo lý và suy tư về những chỉ thị của vị Thầy, ta có thể bước vào phần chính của thiền Đại Thủ Ấn: đó là tu tập miên man về pháp Định Tâm (Samatha) và quán chiếu thâm sâu (Vipasyana). Thành tựu pháp Định Tâm sẽ giúp ta nhận ra (hay nhận lại) bổn tánh của tâm. Quán chiếu thâm sâu sẽ giúp ta thực chứng "tánh Không" (Vacuité, Sunyata) hay thực tướng của vạn pháp. Tu tập đứng đắn và thành tựu được hai pháp này chắc chắn sẽ gột sạch vô minh và tất cả phiền não từ lâu đã phủ dày tâm ta.

Trở về sống hoàn toàn với "cái biết" (hay tánh giác) từ ngàn xưa, trong sáng, tròn đầy và đồng thời phát triển cùng cực tâm Bồ Đề (Bodhicitta), danh từ nhà Phật thường gọi là Đại Trí và Đại Bi, lúc đó ta có thể cất tiếng ca hát khúc khải hoàn, vì ta đã đầy đủ năng lực vô cùng tận để cứu giúp chúng sanh vô số lượng.

Theo truyền thuyết Tây Tạng, xưa kia khi thuyết về Hiển giáo, đức Phật đã dùng hóa thân là Thích Ca Mâu Ni Phật, nhưng khi thuyết về Mật giáo thì lại dùng hóa thân là đức Phật Vajradhara, và chính hóa thân này đã truyền dạy về Đại Thủ Ấn. Giòng truyền thừa này bắt nguồn từ Ấn Độ do ngài Tilopa truyền cho Naropa, sau đó nhà đại dịch giả Marpa đã đem về xứ Tây Tạng truyền lại cho đệ tử là Milarépa, nhà đại hành giả Du Già Tây Tạng, nổi tiếng là đã đạt được giác ngộ hoàn toàn ngay trong một đời, nhờ sự tu hành khổ cực và tinh tấn cũng như hết lòng tôn kính vị Thầy của mình. Tiếp theo là Gampopa, vị này truyền lại cho nhiều đệ tử, trong số đó có ngài Tusum Khyenpa, tức là Karmapa đệ I, sáng Tổ của giòng "Karma-Kagyu". Giòng này tiếp tục truyền thừa cho đến ngày nay và vị Tổ hiện đại là ngài Karmapa đệ XVI.

Kinh sách Tây Tạng luôn luôn nhắc nhở rằng tu hành theo Phật Pháp, nhất là Đại Thủ Ấn hay những pháp môn phức tạp của Mật giáo (Tantra), rất cần sự hướng dẫn cẩn thận và tỉ mỉ của một vị Thầy (Lama, Guru), nếu không sẽ rất dễ lạc đường. Hơn nữa vị Thầy chính là trung tâm điểm của pháp quán Guru Yoga, một pháp quán trọng yếu và căn bản của tất cả trường phái Phật Giáo Tây Tạng. Như vậy vị Thầy cần phải là một người đã giác ngộ và đắc đạo, có khả năng tiếp độ dẫn dắt đệ tử nhận ra bổn tánh của tâm. Do đó người đệ tử cần đối xử và xem vị Thầy của mình không khác một đức Phật sống. Sự tôn kính và phục vụ một vị Thầy như vậy chắc chắn sẽ làm tăng trưởng nhiều căn lành, và đương nhiên sẽ dẫn đến đạo quả một cách nhanh chóng. Tuy vậy việc này không phải là dễ làm, vì dù cho hết lòng tin tưởng nơi vị Thầy (mà ta cho là đắc đạo), đôi lúc ta cũng cảm thấy hình như vị Thầy của mình còn mang vài tật xấu. Nhưng thực ra hành động của vị Thầy chỉ là sự phản ảnh của những vô minh nghiệp chướng còn lưu lại trong tâm ta mà thôi. Có một phương thức tu tập tên là "Lo Djong" của trường phái Kadam Tây Tạng, mà ngài Gampopa đã phối hợp với Đại Thủ Ấn, dạy rằng mỗi khi có một sự tranh chấp xảy ra, ta hãy nhận phần lỗi về mình và phần phải về đối phương. Làm được như thế ta sẽ chuyển tất cả nghịch cảnh thành những thiện duyên lợi ích cho sự tu hành.

Mong rằng tập sách này sẽ đem lại lợi ích cho mọi đọc giả và hành giả.

Alexander Berzin
Dharamsala, Ấn Độ, 1977.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/12/2015(Xem: 8424)
Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
12/11/2015(Xem: 13399)
Những năm trước, nhân đọc một bài pháp thoại, một vị Thiền sư hỏi những người đệ tử của mình, cuộc sống dài bao lâu? Có người bảo 100 năm, 75 năm, 50 năm, 25 năm, v.v... Nhưng câu trả lời của vị Thiền sư đó là: “Cuộc sống chỉ dài như một hơi thở”, vì nếu một hơi thở vào, mà không ra hoặc ngược lại, tức khắc chúng ta từ giã cuộc đời này. Tự nhiên, khi ngắm hoa Quỳnh nở rồi tàn trong một đêm trăng tròn Mười Sáu, chợt nhớ bài pháp thoại năm nao, tâm cảnh hữu tình mà sáng tác một bài thơ: Nếu cuộc sống dài như hơi thở, Ta làm gì giữa hơi thở trong ta?
01/10/2015(Xem: 5971)
Video clip: Lễ tang mẫu thân TT. Thích Nhật Từ
06/09/2015(Xem: 8222)
Hai ngày vừa qua, chuyện về bức ảnh chụp cậu bé Aylan 3 tuổi người Syria trôi dạt vào bờ biển Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ, do nhà báo Nilufer Demir chụp, đã có tốc độ lan tỏa nhanh chóng trên toàn cầu (ảnh 2). Người nữ phóng viên này nói ngay khi ấy cô đã thẩn thờ như chôn chân tại chỗ và với bản năng nghề nghiệp cô cầm máy ảnh giơ lên, để chỉ một vài động tác đơn giản cô đã đưa nó đi xa, làm xao động trái tim hàng triệu con người. “Chẳng biết làm gì, ngoài việc chụp ảnh thằng bé. Tôi nghĩ đấy là cách duy nhất tôi có thể biểu lộ tiếng thét từ thi thể bất động của Aylan”- Cô đã trả lời phỏng vấn ngày 4-9 như thế.
10/06/2015(Xem: 6031)
kiếp sống sẽ nối tiếp ? Không thể tính, không thể đếm. Làm thế nào để cái bánh xe sinh tử ngừng quay ? Ai là người có quyền năng như vậy ? Và tại sao lại phải ngừng quay ? Chết ở đây, sống lại chỗ kia cũng thú vị đấy chứ ! Tại sao lại sợ tái sinh ? Tại sao phải nhàm chán luân hồi ?!
06/06/2015(Xem: 11330)
Nhà để tro cốt Ruriden thuộc ngôi đền Koukoko-ji, Nhật Bản là nơi đang lưu giữ tro cốt của 2046 người đã mất theo một cách hết sức hiện đại và đầy công nghệ. Đây là những hình ảnh ghi lại tại nhà để tro cốt Ruriden thuộc ngôi đền Koukoko-ji, Nhật Bản. Nơi đây đang lưu giữ tro cốt của 2046 người đã mất theo một cách hết sức hiện đại và đầy công nghệ. Những bức tường được ngăn thành rất nhiều ngăn, mỗi ngăn có đặt một bức tượng Phật bằng pha lê và được chiếu sáng bằng đèn LED nhiều màu. Đằng sau mỗi bức tượng là hũ đựng tro cốt của người đã khuất. Như có thể thấy trong hình ảnh, màu sắc từ mỗi bức tượng được điều khiển một cách có chủ đích, tạo nên "bức tranh" đầy màu sắc trên tường.
03/05/2015(Xem: 8747)
Cái suy nghĩ chính xác của chúng ta, là để tạo ra cái bề ngoài cho đời sống mà thôi. Và nó luôn được biểu thị bằng một đường thẳng. Có nghĩa là nó có khởi đầu và có kết thúc, một cách hữu hạn như có sống có chết vậy…
16/04/2015(Xem: 7903)
Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetian Book of the Death) viết về đời sống sau khi chết. Cuốn sách đã được nhiều người nghiên cứu và phiên dịch nhưng vì nó quá hàm súc, khó hiểu nên một số học giả đã rút tỉa vài đoạn trong đó, khai triển rộng ra để an ủi những người đang đau khổ vì cảnh tử biệt. Phần dưới đây trích trong cuốn "To Those Who Mourn" của Giám mục Charles Leadbeater, một nhà thần học nổi tiếng của thế kỷ 20.
31/03/2015(Xem: 9542)
Chỉ với tờ giấy khai sinh đã nhòe mực và vốn tiếng Việt bập bõm, suốt 7 năm qua, ông René lặn lội khắp các cơ quan, báo chí ở TP. Hồ Chí Minh và Vũng Tàu để tìm mẹ. Mỗi năm, ông dành dụm để bay sang Việt Nam vài tháng và chỉ mải miết với mục đích của mình mà không phút giây nào thảnh thơi. Ông René sinh năm 1948 tại Phước Lễ, nay là thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông là kết quả của mối tình giữa y tá Bùi Thị Năm và một quân nhân Pháp.
13/02/2015(Xem: 7784)
Di hài nguyên vẹn trong tư thế ngồi thiền của một nhà sư tịch diệt cách nay 200 năm vừa được tìm thấy ở Mông Cổ. Tờ báo Siberian Times bằng tiếng Anh của Nga phát hành ngày 02 tháng 2 năm 2015, đã đưa tin này trước nhất, và sau đó các hãng thông tấn, truyền hình và báo chí khắp nơi trên thế giới tiếp tục loan báo và đã gây ra một tiếng vang không nhỏ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567