Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luân Hồi Và Chúng Sinh

28/12/201017:31(Xem: 9797)
Luân Hồi Và Chúng Sinh

Đức Đạt Lai LạtMa thứ 14 & Mike Austin
VẦNG SÁNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG

Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Lao Động

LUÂNHỒI VÀ CHÚNG SINH


MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ thế nào về việc đạo Phật được truyền đến Hoa Kỳ và cácnước phương Tây?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôn giáo không có biên giới. Có một số người Mỹ quan tâm đếnđạo Phật, và nếu đạo Phật có ích cho họ, thì như vậy là đủ rồi.


MIKE AUSTIN: Nói chung, không chỉ là sự quan tâm đến đạo Phật, mà còn có sựkiện phục hưng đời sống tâm linh ở quốc gia này trong 15 năm qua. Ngài cho rằngđiều gì đã gây ra sự kiện này?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có thể là nhờ vào sự phát triển vật chất, và văn hóa Hoa Kỳ làmột sự pha trộn nhiều nền văn hóa. Vì thế, người Mỹ rất cởi mở đối với bất cứđiều gì. Hẳn phải có nhiều yếu tố, như cạnh tranh nhiều trong công việc vànhững điều tương tự như vậy... khiến cho người ta phải đối mặt với những khókhăn, và ngoài ra họ còn trở nên quan tâm đến điều gì đó nghiêm túc hơn. Bạnthấy đó, họ trở nên sâu sắc hơn.


MIKE AUSTIN: Từ trong khó khăn nảy sinh mối quan tâm đến sự phát triển tâmlinh?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu tâm loạn động, chỉ cần quán tưởng về một điểm hay một đềtài trong một thời gian ngắn thì sẽ có được sự an tĩnh. Từ ban sơ, con người đãtrở nên bị thu hút vào loại hình sinh hoạt này vì nó giống như một bữa tiệctinh thần hay một kỳ nghỉ. Và không chỉ là đạo Phật, mà là tất cả nhữngtôn giáo của phương Đông.


MIKE AUSTIN: Ngài nghĩ gì về những lễ nghi tôn giáo? Con người từ bỏ tư cách cánhân của mình trước một vị giáo chủ hay đấng quyền năng?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Để trả lời điều này, tôi sẽ nói về cách đánh giá một bậc thầytrong đạo Phật. Giáo lý mà đức Phật truyền dạy không phải là để phô bày kiếnthức với người khác, mà là để giúp họ. Vì thế, bất luận tư tưởng hay nhận thứcriêng của mình là như thế nào, một bậc thầy luôn giảng dạy giáo lý phù hợp theovới cá tính, sự quan tâm... của người nghe. Những người học Phật, nếu muốn xácđịnh được ý nghĩa rốt ráo thì phải phân biệt giữa những gì có thể diễn giải -như khi được nói ra vì một mục đích cụ thể - và những gì là rốt ráo, hay chânlý tuyệt đối. Nếu trong sự phân định những gì là có thể diễn giải và những gìlà sự thật tuyệt đối trong một kinh điển, người ta phải dựa vào một kinh điểnkhác, thì lại phải cần đến một kinh điển khác nữa để xác tín kinh điển trướcđó, và thêm một kinh điển nữa để xác tín kinh điển sau này. Sự việc sẽ có thểkéo dài đến vô cùng. Do vậy, một khi người ta đã khẳng định rằng có sự phânbiệt hai ý nghĩa này, thì cần thiết phải dựa trên sự suy luận để thực thi.Những gì không bị phá vỡ bởi sự suy luận, đó là chân lý tuyệt đối. Do có thựctế này, đức Phật đã chỉ ra bốn chỗ y cứ (tứ y):


- Không y cứ vào con người, mà y cứ vào giáo pháp (Y pháp bất y nhân).


- Về giáo pháp, không y cứ vào từ ngữ, mà y cứ vào ý nghĩa (y nghĩa bất y ngữ).


- Về ý nghĩa, không y cứ vào ý nghĩa diễn giải, mà y cứ vào chân lý tuyệt đối(y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh).


- Về chân lý tuyệt đối, không y cứ vào sự nhận hiểu của ý thức thông thường, mày cứ vào sự hiểu biết của trí tuệ siêu việt (y trí bất y thức)


Do đây, độ tin cậy của giáo pháp không thể xác định qua việc đánh giá ngườigiảng dạy, mà phải qua sự thẩm định chính giáo pháp ấy.


Trong kinh, đức Phật dạy rằng: “Các tỳ-kheo và thiện tri thức nên tin nhận lờidạy của Như Lai không phải do lòng kính trọng mà là qua sự phân tích giáo lýấy, như người thợ kim hoàn phân tích chất vàng bằng cách cắt đứt, nung chảy,mài giũa và đánh bóng nó.”


Người ta không chỉ xác định rằng đức Phật là cội nguồn nương tựa đáng tin cậybởi sự kiện là thân tướng đức Phật được trang nghiêm bằng những tướng tốt chínhvà phụ, mà bởi vì giáo pháp của ngài để thành tựu các cảnh giới cao và sự chíthiện là đáng nương cậy. Vì giáo lý dành cho các cảnh giới cao đề cập đến vậtthể, có liên quan đến những hiện tượng rất ẩn mật và vượt ngoài những tiếntrình suy luận thông thường, nên cần thiết phải tham cứu đạo Phật để thành tựusự chí thiện.


Một cách cụ thể, đây là những giáo lý về nhận thức trí tuệ tánh không. Thôngqua sự xác định rằng giáo lý ấy là đúng đắn và hiển nhiên, người ta sẽ đi đếnkết luận rằng giáo lý về các cảnh giới cao là chân xác. Như ngài Pháp Xứng đãnói, bậc đạo sư phải là người khéo léo trong cách tiếp xử, cái gì thừa nhận vàcái gì loại trừ. Người ta không thể nào chấp nhận một bậc thầy chỉ vì người ấythi thố phép lạ, có khả năng thấu thị, nhìn thấy những vật từ xa hoặc có khảnăng thể hiện những năng lực vật lý nào đó. Dù người ta có thể nhìn thấy đượctừ xa hay không cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng là người ta biết cách đểđạt được sự an lạc - như ngài Pháp Xứng nói. Nếu chỉ cần thấy được vật thể từxa, thì người ta nên quy y con chim kên kên! (Đây là ý trong bài kệ căn bản củaLượng thích luận.)


Tất cả những điều này là để cho thấy rằng một bậc thầy phải có đầy đủ phẩm chấtkhi giải thích những gì được thừa nhận và những gì phải loại trừ. Do vậy, trongtạng Kinh, Luật và trong nhiều phần khác nhau của các tan-tra, đức Phật đề ramột cách chi tiết những phẩm hạnh của các bậc thầy ở từng cấp độ khác nhau.


Sự phân tích về một bậc thầy để xem vị ấy có đủ các phẩm hạnh hay không là điềurất quan trọng trước khi chấp nhận. Điều này càng đặc biệt quan trọng trongviệc tu tập tan-tra. Trong một tan-tra có nói rằng vì sự nguy hiểm rất lớn chocả thầy lẫn trò, nên nhất thiết phải tìm hiểu kĩ lưỡng trước đó, cho dù có phảimất đến 12 năm để đi đến một kết luận.


Trong đạo Phật, nếu chỉ có niềm tin là đủ thì đức Phật hẳn không cần phải đề ranhững chi tiết quan trọng đến thế liên quan đến việc chọn lựa một bậc thầy.Trong sự tu tập Tan-tra, pháp tu Du-già Tan-tra là rất quan trọng. Nhưng cho dùlà quan trọng, nó cũng không được thực hiện trên nền tảng của niềm tin mùquáng. Trong Giới kinh có nói rằng nếu một vị Lạt-ma giảng dạy trái ngược vớigiáo lý thì người ta nên phản đối điều đó.


Một bản kinh được trích dẫn trong tác phẩm Bồ-đề đạo thứ đệ của Tông-khách-banói rằng người ta nên nương tựa vào vị Lạt-ma bằng cách tán thành những gì phùhợp với giáo lý và phản đối những gì không phù hợp. Đây là một bản kinh trongBồ Tát tạng.


Còn về Man-tra thừa, trong tác phẩm Sự sư pháp ngũ thập tụng của Bồ Tát Mã Minhnói rằng nếu một vị Lạt-ma dạy điều gì mà người ta không chấp nhận, thì nêndùng lời nói để giải thích cho vị Lạt-ma ấy biết lý do tại sao. Điều này giảithích cách mà người ta nương tựa vào một vị Lạt-ma trong cả ba thừa của đạoPhật. Hành giả không nên rơi vào một trong hai phía cực đoan. Vì trong tất cảmọi công phu tu tập, sau khi xác định được chân lí bằng lý luận, hành giả nêncó một niềm tin, nhưng đó chẳng phải là niềm tin mù quáng dẫn bạn đến hố sâu.Bạn nên quán sát kỹ những gì bậc thầy nói, chấp nhận những gì phù hợp và khướctừ những gì không phù hợp. Đây là một tiến trình chung trong đạo Phật, và tôitán thành điều này. Tôi làm theo điều ấy.


MIKE AUSTIN: Làm sao để quy y với một bậc thầy hoặc với đức Phật trừ phi chínhta đã thân chứng được giá trị đích thực trong giáo lý của họ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu nói về sự quy y với nhận thức đúng đắn, thì nhất thiết phảixác định được niết-bàn là gì trước khi quy y. Để hiểu chân xác rằng niết-bàn làthực có và có thể chứng nhập, thì điều thiết yếu là phải nhận biết được tánhkhông. Đây thường là mô thức dành cho người duy thực, những người luôn phảikhởi đầu từ những sự kiện thực tiễn. Tuy nhiên, đối với những dạng người khác,chủ yếu dựa theo niềm tin, thì có nhiều cách khác nhau để họ tạo ra niềm tin.Thế nên, dù người ta không có được nhận thức đúng đắn về niết-bàn và khả năngthực chứng niết-bàn, thì ít nhất họ cũng phải có được một giả định chính xác vềniết-bàn.


MIKE AUSTIN: Có mâu thuẫn chăng khi nói rằng các hành giả duy thực phảiđi trọn con đường trước khi quy y cũng chính trong con đường mà họ đã đi qua?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Hiện thực hóa niết-bàn và sự khẳng định rằng niết-bàn có thựclà hai việc hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, thực sự đến nơi này và biết chắcnơi này có thực là khác nhau.


MIKE AUSTIN: Phần lớn người thế gian đều không nhiệt thành trong việc đào luyệntâm linh. Những khía cạnh quan trọng và sâu thẳm nhất trong đời sống của họ lànhững mối quan hệ với người khác - đặc biệt là với các thành viên trong giađình. Ngài cho rằng đến mức độ nào thì những mối liên hệ căn bản này được xemnhư là một phương tiện cho sự phát triển của nhân loại? Tự thân những mối quanhệ ấy có chút tác dụng nào giúp cho con người tiến hóa chăng?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi không rõ. Có một dạng tình thương của chúng ta là chânthực. Tình thương này có thể trải rộng hướng đến sự phát triển tâm linh. Nó cóthể được dùng như là nền tảng cho sự phát triển thành Từ vô lượng tâm. Thế nên,từ quan điểm đó thì đời sống gia đình hay những quan hệ gia đình có thể là cólợi. Trong bản chất con người đã sẵn có lòng tốt theo cách nào đó. Phần nàotrong đó là hợp lí. Nhưng đồng thời lòng tốt thông thường sẵn có trong bản chấtcon người lại chịu ảnh hưởng rất mạnh của ái luyến. Điều này lại chẳng có liênquan gì đến phương diện tinh thần, và trong thực tế còn có tác động như một trởngại.


MIKE AUSTIN: Ngài nói đến tình thương dựa trên sự ái luyến?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.


MIKE AUSTIN: Vậy xin ngài có thể nói về tình thương chân thực?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có nhiều nguyên do để có tình thương chân thực. Khi bạn có lòngtrắc ẩn hoặc thương xót một người rất nghèo, lúc ấy bạn tỏ ra cảm thông bởi vìngười ấy nghèo. Tình thương ấy đặt nền tảng trên nguyên nhân đúng đắn. Còn tìnhthương dành cho vợ, con hoặc một người bạn thân là tình thương dựa trên một đốitượng ái luyến. Một khi sự ái luyến của bạn thay đổi, tình thương loại này sẽkhông tồn tại nữa. Dạng tình thương đã nói trước không dựa trên sự ái luyến củabạn, mà là tình thương - như trong trường hợp này - phát khởi do có một ngườiđang chịu đựng sự nghèo khổ. Như vậy, khi nào ông ta còn nghèo khổ thì tìnhthương của bạn vẫn còn tồn tại.


MIKE AUSTIN: Có phải ngài cho rằng tình thương chân thực chỉ có được trong sựcảm thông.


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng! Tương tự như vậy. Tình thương chân thực sẽ không thay đổitheo cảm xúc của bạn đối với đối tượng. Tình thương gắn liền với sự ái luyến sẽthay đổi rất nhiều tùy theo cách nhìn của bạn với đối tượng.


MIKE AUSTIN: Tín đồ Phật giáo cho rằng xúc cảm là chướng ngại - tâm sở phiềnnão - là điều nên trừ bỏ. Dù vậy, ở phương Tây thì một trong các tiêu chuẩnchính của cuộc sống trọn vẹn chính là việc những cảm xúc sâu kín nhất đã đượctrải nghiệm như thế nào. Nếu một người né tránh sự đam mê sẽ bị người khác cholà sống giả tạo. Mặt khác, người ta thường ngưỡng mộ những người có nhiều kinhnghiệm sống. Hai quan niệm này có phải phủ định lẫn nhau không?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều này hơi phức tạp. Có những cảm xúc mạnh mẽ nào đó đến vớibạn do ái luyến. Tương tự, những tình cảm mạnh thậm chí có thể có mặt trongcông phu thực hành giáo pháp hoặc trong sự kính ngưỡng của bạn đối với bậc thầycủa mình. Cho dù tình cảm này có vẻ như là tốt, nhưng nếu hành giả tu tập đúngđắn thì đến giai đoạn sau đó anh ta sẽ phải loại trừ cả những tình cảm này.


MIKE AUSTIN: Vậy là thực sự không có cách nào để tương đồng hai quan niệm này?Điều gì sẽ xảy ra khi bạn hữu hay cha mẹ của một người qua đời, ngài không thấyrằng việc họ đau buồn là điều đúng đắn hay sao?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đối với cái chết của cha mẹ hay của người khác, đúng là có lýdo để đau buồn. Tôi chẳng thấy có gì sai trái trong điều này. Nếu có điều gìbất hạnh xảy đến cho cha mẹ mình hoặc xảy đến cho người mà mình yêu quý nhất,thì đó là một lý do hợp lý để đau buồn. Nhưng ở đây, nếu có người bị mất cha mẹvà đau buồn, tôi nghĩ là sự đau buồn của họ nên dựa trên sự hợp lý, vừa phải.Tôi nghĩ như vậy là đúng đắn. Đừng quá vô tình, nghĩa là anh ta phải cảm thấyrất tiếc nuối. Đừng quá đau đớn, có nghĩa là anh ta biết chấp nhận điều ấy. Nhưvậy đó, sự đau buồn dựa trên ái luyến mạnh mẽ là không tốt. Do sự đau buồn đó,người ta thậm chí có thể tự vẫn! Đi đến mức độ đó là đã vượt quá sự hợp lý.


MIKE AUSTIN: Vì thế nên đó là điều nên từ bỏ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2013(Xem: 20292)
Thuyết Luân Hồi & Phật Giáo Tây Phương (Rebirth and The Western Buddhism), nguyên tác Anh ngữ của Martin Wilson, Việt dịch: Thích Nguyên Tạng
24/07/2013(Xem: 14644)
Ca sĩ có Pháp danh Minh Tú chỉ mới bước qua tuổi đời 26 vừa vĩnh biệt xả báo thân hôm qua (21/07/2013) tại T.p Hồ Chí Minh. Wanbi Tuấn Anh được công chúng và trong giới nghệ thuật luôn tâm đắc là người “nghệ sĩ hiền hậu”. Wanbi cũng đã từng phát tâm quy y Tam bảo và tìm hiểu giáo lý Phật pháp lúc còn đang trẻ. “Người tu học Phật pháp phải thấy rõ điều này để biết cách áp dụng lời Phật dạy vào đời sống sinh hoạt của chính mình, để mỗi ngày bớt tham, sân, si, thăng tiến trên đường đạo”.
28/06/2013(Xem: 10558)
HỎI: Bạn có tin tưởng tái sinh không? ĐÁP: Vâng, tôi tin. Nhưng, phải lâu lắm tôi mới đạt đến điểm này. Tin tưởng tái sinh không đến một cách ngay lập tức. Một số người có thể đến từ một truyền thống tin tưởng ở tái sinh như một phần trong nếp sống văn hóa. Đây là trường hợp trong nhiều quốc gia Á châu, và vì thế, vì người ta đã từng nghe về tái sinh từ khi họ còn là những thiếu niên, sự tin tưởng điều ấy trở thành một cách tự động. Tuy nhiên, những điều ấy đối với chúng ta từ những nền văn hóa Tây phương, nó dường như lạ lùng lúc ban đầu. Chúng ta thường không dễ bị thuyết phục trong vấn đề tái sinh ngay tức thì, với những cầu vồng và âm nhạc phía sau lưng và “Chúa nhân từ ơi! Bây giờ tôi tin!” Nó không thường hoạt động như thế.
23/04/2013(Xem: 8223)
Lần tay tính lại sổ đời, Kiếp người chìm nổi vận thời rủi may... Bạch Vân Nhi
11/04/2013(Xem: 11360)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
11/04/2013(Xem: 6123)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
10/04/2013(Xem: 3976)
Theo một số sách viết không chủ trương có khoảng thời gian từ khi chết đến lúc tái sinh, nghĩa là sau khi chết tái sinh liền vào một trong sáu cõi. Nhưng theo Kinh sách Tây Tạng lại viết: “Sau khi chết, có trạng thái của “Thân trung ấm”, tức là có người sau khi chết tái sinh liền, có người tái sinh sau 1, 2, 3, 4 . . . ngày cho đến chậm nhất là 49 ngày”.
08/04/2013(Xem: 19037)
Khi nói đến Nhân và Quả tức là bao hàm ý nghĩa rộng lớn của Luân hồi. Luân hồi là sự chuyển biến xoay vần trở lại. Con người chết đi không phải là hoàn toàn mất hẳn. Thân xác sẽ tan rã theo cát bụi nhưng còn một phần vô cùng linh hoạt và vẫn hiện hữu đó là linh hồn. Mọi sự, vật trong vũ trụ, thiên nhiên đều chịu sự tác động của luân hồi, nhân quả. Như nước chẳng hạn, trong thiên nhiên, nuớc bốc thành hơi, hơi nước đọng lại thành mây rơi xuống thành mưa, mưa chảy tràn ra đất, qua sông suối, hồ và chảy ra biển.
08/04/2013(Xem: 26332)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
08/04/2013(Xem: 14219)
Tôi viết tác phẩm này nhằm chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết với bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu về cái chết. Suy nghĩ về cách chúng ta có thể trực diện với cái chết – bằng can đảm và tính thanh thản, có phẩm cách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]