Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sách Tham Khảo & Chú Thích

17/12/201016:30(Xem: 12134)
Sách Tham Khảo & Chú Thích

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

Sách tham khảo

S.S le Dalai Lama,Comment pratiquer le Bouddhsme, dịch từ tiếng Anh do Yolande du Luard, Plon,2002, Pocket 2003.
- Sens de la vie:réincarnation et liberté, dịch từ tiếng Anh do Michel Cool và Pierre Lafforgue,J’ai lu 2000.
- Kindness,Clarity, and Insight, dịch từ tiếng Tây tạng do Jeffraey Hopkins, Ithaca, N.Y.Snow Lion Publication, 1984.
RINPOCHÉ Lati et JeffrayHOPKINS, La mort, l’État intermédiaire et la Renaissance dans le Bouddhismetibétain. Dharma, 1997.

TSONGKHAPA, Le GrandLivre de la progression vers l’Éveil, vol. 1, Dharma, 1997.

LEKDEN, KENSUR,Compassion et vacuité: méditation d’un supérieur de collège tantrique pratiquede la vacuité, Publié chez Dharma, 1989.

HOPKINS, Jeffray,Bouddhist Advice for Living ang Liberation; Nagarjuna’s Precious Garland.Ithaca, New York; Snow Lion Publication, 1998.
- CultivatingCompassion. New York: Broadway Books, 2001.

WALLACE, Vesna A. and B.Alan WALLACE, A guide to Bodhisattva Way of Life. Ithaca, New York, Snow LionPublications, 1997.

Rinchen, Geshe SONAM andRuth SONAM, Yogic Deeds of Bodhisattvas: Gel-stap on Aryadeva’s Four Hundred,Ithaca, New York, Snow Lion, 1994.

Chú Thích

1 Bodgaya: Phật Già-Đahay Chánh Giác Sơn. Đức Thích Ca đã tham thiền nơi đây và đắc quả Chánh Giác.
2 « Đỉnh kên kên », đỉnhnúi có khối đá hình dáng một con chim kên kên. Kinh sách tiếng Hán và tiếngViệt viết là « Linh thứu sơn », còn gọi tắt là « Linh sơn » (tiếng Phạn làGridharakuta »).

3 Ninh-mã phái (Nyingma)còn gọi là Hồng giáo vì các nhà sư đội mũ màu nâu đỏ. Đây là giáo phái xưa nhấttrong bốn giáo phái chính của Tây tạng.

4 Còn gọi là Tối thươngDu-già Tan-tra hay Vô thượng Du-già Tan-tra: phương pháp tu luyện tối thượng,thành phật trong kiếp này với thân xác này. Tối thượng Du-già Tan-tra xem tâmtịnh là căn bản của mọi phép tu.

5 Còn gọi là Bồ tát VănThù hay Diệu Đức, hay Diệu Cát Tường, hay Diệu Âm, (tiếng Phạn là Manjousrhi),là vị Bồ Tát tượng trưng cho Trí Tuệ và kinh nghiệm giác ngộ bằng phươngtiện Tri Thức.

6 Tăng đoàn

7 Câu này là tiếng Phạn,tạm dịch nghĩa: « Om, Ngọc Quý trong Hoa Sen, Hum » (Om và Hum không cónghĩa nhưng hàm chứa âm hưởng thiêng liêng)

8 Ý câu này có lẽ muốnnói đến sự cân đối giữa tâm linh và thể xác, hàng thú vật phần tâm linh kémhơn.

9 Chẳng hạn trường hợpchó xông vào đám cháy để cứu trẻ em, nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặctrường hợp cá voi, cá heo cứu người trên biển...

10 Đây là một mệnh đề vềluận lý triết học. Một cách đại cương, sự hiện hữu của xác thân trên đó giáccảm, sự cảm nhận và tâm thức phát triển, là do sự phối hợp của rất nhiều «nghiệp », hay rất nhiều nguyên nhân và điều kiện.

11 Thánh Thiên: têntiếng Phạn là Aryadeva, dịch âm là Đề-Bà, dịch nghĩa là Thánh Thiên Bồ-tát, còngọi là Độc Nhãn Bồ Tát vì giai thoại sau đây: Trên đường từ Tích Lan đến tuviện Nalanda, bắc Ấn độ, ngài gặp một người đàn bà xin một con mắt để tu luyện,ngài liền móc mắt bên phải và cho ngay. Thánh Thiên sinh vào cuối thế kỷ thứ IItại Tích Lan, là một trong những đệ tử quan trọng của Bồ Tát Long Thọ(Nagarjuna), và cũng là tổ thứ 15 của Thiền tông Ấn độ. Ngài trụ trì một thờigian khá lâu tại tu viện Nalanda, trước khi trở về phương Nam. Một trong cáctác phẩm chính của Ngài là « Bốn trăm tiết mục » liên quan đến du-già.

12 Hiện trạng thân thểphì nộm (quá mập), là một lo lắng của các xã hội Tây phương hiện nay.

13 Đức Dạt-lai Lạt-macũng như những nhà sư Tây tạng khác, khi thuyết giảng thường ngồi trong tư thếhoa sen trên một bục gỗ cao trang trí rất đặc biệt.

14 Dịch câu này tôi liêntưởng đến hiện tượng ta gọi là « phép lạ ». Dù phép lạ có thật, xảy ra thậtnhiều và thường xuyên đi nữa, rốt cuộc ta cũng chết. Phép lạ không phải là mộtgiải pháp, cũng chẳng phải là một lối thoát. Nếu « có thật » đi nữa, cũng chỉlà tạm thời và giai đoạn mà thôi, kể cả phép lạ và người làm ra phép lạ, sựthoái hóa và tan rã cũng đã nằm sẵn trong đó.

15 Tsongkapa, dịch âm làTông-Khách-Ba (1357-1419), là một vị Lạt-ma nổi danh của Tây tạng, sáng lậptông phái Cách lỗ (Gelugpa). Ông sinh ở tỉnh Amdo, cùng quê với Đức Đạt-laiLạt-ma XIV. Từ bé đã cực kỳ thông minh, lúc ba tuổi thụ giới với một vị sưthuộc dòng Cát-mã-ba (Karmapa). Trong số những tác phẩm ông đã để lại có thiênluận giải gồm 18 bộ, đã trở thành kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây tạng.

16 Một câu nói rất ýnhị, một vị bác sĩ đương nhiên sẽ hiểu rằng giả thuyết nào sẽ gần với sự thậthơn hết để chuẩn bị.

17 Vô minh, tiếng Phạnlà Avidya, dịch âm là A-vĩ-nễ hay A-vĩ-di, có nghĩa là tâm thức không sáng, ámmuội, u mê, không nhìn thấy bản thể đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố.Vô minh cũng có nghĩa gần tương đương với si, si mê (mudha, moha).

18 Giai đoạn trung gian,còn gọi là trung ấm, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.

19 Thuộc miền tây bắc Ấnđộ, nơi Đức Dat-lai Lạt-ma lưu trú.

20 Dịch âm là kinhCha-kra sam-va-ra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe đại hạnh ». Một bộ kinh quantrọng của Phật giáo Tây tạng.

21 Dịch âm là kinh Ka-lacha-kra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe thời gian » hay kinh « Thời luân ». Bộkinh rất quan trọng thuộc trường phái của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Kinh Ka-lacha-kra là một bộ kinh rất thâm sâu và phức tạp, xuất hiện vào khoảng thế kỷthứ X ở Ấn độ, nhưng theo truyền thống thì bộ Kinh này có nguồn gốc xưa hơn, từthời Đức Phật Thích-ca.

22Phật ứng hiện dưới baxác thân gọi là Tam thân Phật:

-Pháp thân (dharmakya):bản thể của Phật, còn gọi là Chân như.

-Báo thân (vipakakaya):hiện thân của Phật.

-Ứng thân (nirmànakaya):còn gọi là Hoá thân, Ứng hóa thân, Biến hóa thân...có nghĩa Phật ứng hiện ởmuôn ngàn thể dạng khác nhau để tùy cơ dẫn độ chúng sinh.

23 Thanh tịnh độ còn gọilà Tịnh độ, Phật quốc, Phật giới, Phật địa v.v…

24 nKhông được rõ vềlịch sử các nhân vật này và nguồn gốc kinh sách trích dẫn.

25 Tức là sự nhận biết,còn gọi là thức (tiếng Phạn: vijnana), có thể xem tương đương với các chữ nhưtri giác, ý thức hay tri thức, khác nghĩa với tạng thức hay hay A-lại-gia-thức(tiếng Phạn alayavijnana). Học phái Duy Thức xem tạng thức là dạng thể cao nhấtcủa phần tâm thức, là căn bản của mọi hiện tượng. Nghĩa khác biệt nhau giữa cácdanh từ là một trở ngại lớn trong việc dịch thuật. Các chữ thức, tri thức, trigiác...có nghĩa là sự nhận biết, trong khi đó chữ tâm thức hay tâm linh cónghĩa rộng và sâu hơn, gồm cả xúc cảm, sự suy nghĩ, tình cảm, những xung năngtiềm ẩn...

26 Cách mô tả sinh họccủa Tối thượng Du-già Tan-tra là một cách mô tả « ẩn dụ », tức cụ thể hoá vàđơn giản hoá những gì phức tạp hơn, nhắm vào mục đích hướng dẫn sự chú tâm vàthiền định.

27 Đám rối dương (plexussolaire) là một danh từ Y khoa, còn gọi là trung tâm thần kinh thực vật nằmgiữa dạ dày và xương sống.

28 Trẻ vị thành niên ởcác trường học, hoặc trong phòng riêng của chúng thường bày trò chơi bằng cáchdùng dây hay khăn buộc cổ và xiết thật chặt đến lúc gần ngất xỉu (chết) mớibuông ra. Chúng tự làm hay nhờ bạn làm giúp. Giây phút sắp ngất xỉu, vì thiếudưỡng khí lên óc, tạo ra một trạng thái « sảng khoái » (?) hay « hoa mắt » làmcho chúng thích thú. Trò chơi này thường gây nhiều tai nạn chết người, phụhuynh và những người giữ trọng trách giáo dục tại Âu châu thường chú ý canhchừng và cấm đoán. Trường hợp mô tả trên đây là dùng các kỹ thuật du-già (thiềnđịnh) để tìm hiểu những trạng thái sâu kín trong quá trình của cái chết.

29 Bà AlexandraDavid-Néel cũng đã chứng kiến những hiện tượng này, xin xem các sách của bà. BàAlexandra David Neel (1868-1969) là một người phưu lưu và xông pha khác thường,có một trí thông minh vượt bậc. Bà là người phụ nữ Âu châu đầu tiên đến đượcLhasa năm 1924. Bà viết rất nhiều sách về Phật giáo, về Tây tạng, Ấn độ, Trunghoa, và đã từng đến Việt Nam và có viếng đền thờ hai Bà Trưng tại Hà nội, trướckhi tiếp tục đi ngược lên Vân nam thuộc Trung quốc. Sách của bà đã có nhiều ảnhhưởng trong nền tư tưởng Phật giáo Âu châu và thế giới kể cả thế hệ trí thứccủa cha anh chúng ta trong cả hai giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Rất tiếcsách của bà rất ít được dịch sang tiếng Việt. Cụ Đoàn Trung Còn, một học giảlỗi lạc của Việt Nam, có trích dịch sách của bà trong quyển « Mấy thầy tu huyềnbí Tây tạng và Mông cổ » xuất bản năm 1942. Quê của bà ở miền Nam nước Pháp vàngôi nhà trước kia của bà hiện nay đã trở thành một bảo tàng viện trưng bàynhiều di vật, bản thảo các sách của bà ; bàn thờ Phật vẫn giữ nguyên như khi bàcòn sống. Hàng năm rất nhiều người đến viếng và chiêm ngưỡng. Khi Đức Đạt-laiLạt-ma đến miền Nam nước Pháp thuyết giảng, có ghé đến đây và đọc một bài diễnvăn tưởng niệm bà.

30 Tánh không, tiếngPhạn là « Sunyata » có sách viết là không, hư không, hư vô (các kinh sách Tâyphương dịch là vide, vacuité, espace, vacuum, emptyness...). Tánh không của mọihiện tượng, tức mọi vật thể và mọi biến cố, là một khái niệm căn bản của ĐạoPháp. Mọi hiện tượng ta « thấy » và « hiểu », tức cảm nhận được, chỉ là nhữngbiểu lộ tạm thời, phát sinh từ nhiều nguyên nhân và liên hệ với nhiều điều kiện; chúng biến đổi không ngừng, kể cả các nguyên nhân và điều kiện tạo tác rachúng. Đó là bản chất vô thường của mọi vật thể và mọi biến cố, thực tính haybản chất đích thực của chúng là Tánh không.

31 Kinh sách tiếng Việtvà Hán gọi là « giả tướng »

32 Trí tuệ tiếng Phạn làPrajna. Thật ra, trong kinh sách Tây phương cũng như kinh sách tiếng Việt,không có chữ nào tương đương và diễn tả hết ý nghĩa của chữ này. Chữ Prajnadịch âm là: Bát-nhã, Bát-lạt-nhã, Ban-nhã, Bát-la-nhã, Tỳ-bà-xá-na..., dịchnghĩa là Trí, Minh (Sáng), Trí-huệ hay Trí-tuệ...

33 Tiếng nhà Phật là VôMinh (=A-vĩ-di, Avidya).

34 Nhà bác học và triếtgia Pháp Blaise Pascal, thuộc thế kỷ XVII, đã phát biểu một câu nổi tiếng nhưsau: « Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu » (Je pense donc je suis). Vậy ta thửhỏi trước khi ta suy nghĩ, ta có hiện hữu hay không? Giữa hai sự suy nghĩ haysau một sự suy nghĩ (vì lý do này hay lý do khác, bắt buộc hay tự ý: xao lãng,ngất xỉu...), ta có hiện hữu hay không? Vậy sự hiện hữu của ta dính liền vớimột điều kiện phải có là sự suy nghĩ, sự suy nghĩ của ta lại dính liền với vô sốnhững điều kiện khác nữa, chẳng hạn như thân xác ta, tâm thức ta, sự học vấncủa ta, ngay cả sự hiện hữu của ta, v.v. và v.v…

35 Tức là giới luật củanhững vị Bồ tát, gọi là Bồ Tát Giới, gồm 10 điều nghiêm cấm hệ trọng và 48 điềunghiêm cấm thứ yếu. Điều 8 trong 10 điều nghiêm cấm hệ trọng là sự Ganh ghét.

36 Tông-khách-ba(Tsongkhapa) (1357-1419): là một vị Lạt-ma Tây tạng, sáng lập giáo phái Cách lỗ(Gelugpa)

37 Khi ta không thấy sựhiện hữu nội tại hay tự tại của mọi hiện tượng, ta cho là chúng không có, khônghiện hữu đích thực (Tánh không). Nhưng ta không thể phủ nhận cơ sở, tức đốitượng của những gì ta đang tìm kiếm. Rốt lại, ta nhận ra rằng những gì ta tìmkiếm và những gì ta phủ nhận cũng chỉ có bằng tên gọi hay danh xưng mà thôi.

38 Có thể tạm hiểu như «thực tính » của một hiện tượng.

39 Tức ba giai đoạn hiểnhiện của bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam, màu đen.

40 Mặc dù hết sức đađoan, Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn ngồi thiền, học hỏi, tu tập liên tục mỗi ngày,luôn luôn nhắc đến các vị thầy của mình và truyền lại cho chúng ta những kinhnghiệm đã học hỏi được. Xin chú ý sự khiêm nhường của một vị « Phật sống ».Trong nhiều sách khác Ngài cho biết vẫn ngồi thiền và ôn tập các giai đoạn củaquá trình cái chết từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Ta thấy rằng điều này chẳng cóhại gì đến sự thư giản, và sức làm việc của Ngài, vì lúc nào Ngài cũng tươicười, ân cần với tất cả mọi người, có khi lại rất dí dỏm và khôi hài.

41 Những hiện tượng nàyđã được nhiều bệnh viện và bác sĩ Tây phương chứng nhận khi có các nhà sư Tâytạng chết tại Mỹ châu và Âu châu. Chỉ có các nhà sư Tây tạng mới xác định đượclúc nào người chết đã « chết hẳn ».

42 Có những trường hợpkhi các vị cao tăng ngồi thiền, hoạt động sinh lý của cơ thể chậm hẳn lại, timđập rất nhẹ và rất chậm, nhịp thở cũng rất chậm và thật nhẹ, mạch gần như khôngnhận ra. Các vị ấy bất động trong tư thế ngồi thiền giống như tình trạng đãviên tịch, nhưng râu tóc vẫn thấy mọc. Người chung quanh chờ mãi không thấyđộng tịnh, hư rữa, liền đem sơn (loại sơn mài) bôi lên khắp người thành một photượng. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy hoặc chụp hình bộ xương bên trongbằng quang tuyến X. Những di tích này vẫn còn ở Việt Nam và vài nước Á châukhác.

43 Dịch nghĩa là kinh «Kết hợp thần bí », bộ kinh này được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ XI.

44 Có thể đây là nhữnghình ảnh cụ thể hóa dùng để mô tả những diễn biến siêu hình vượt ra khỏi sứchiểu biết thông thường của ta, trong mục đích sử dụng cho việc thiền định.

45 Tức là không còn táisinh nữa

46 Phát huy hơi nóng làcách tu tập của một số nhà sư Tây tạng. Vào mùa đông dưới không độ, họ trầntruồng ngồi thiền định xếp hàng trên tuyết, những người phục vụ nhúng một cáimền (chăn) hay khăn trong nước lạnh buốt và đắp lên lưng họ, khi chăn khô vìhơi nóng thì lại đắp lên tấm khác. Số chăn sấy khô trong một đêm xác nhận cấpbậc thiền định của mỗi người. Hiện tượng này gần đây đã được các bác sĩ ngườiMỹ nghiên cứu bằng cách nhờ các nhà sư Tây tạng trên đất Mỹ và tại Dharamsala(Ấn độ) thực hiện. Họ đeo cho các nhà sư máy móc để đo nhịp tim, áp huyết vànhiệt độ nhiều nơi trên thân thể, mặt nạ đo nhiệt độ và tổng lượng dưỡng khíhít vào, khí oxid carbon thở ra v.v....Bà Alexandra David-Neel cũng có mô tảcách luyện tập này trong các sách của bà. Chính bà cũng tập luyện thành côngphép này và cho biết hơi nóng phát sinh giúp những nhà sư ngồi thiền định trongcác hang núi ở Hy Mã Lạp Sơn có thể nhịn đói và chịu lạnh qua hết mùa đông. Bàcòn cho biết những người tu cao, không cần ngồi trong tư thế thiền định, sứcnóng vẫn phát sinh tự nhiên, chỉ cần mặc một áo mỏng giữa mùa đông.

47 Để đưa ra một thí dụ:Sau đây là vài lời khuyên của một nhà sư người Mỹ Lama Surya Das, từng tu họcgần ba mươi năm ở Népal, Tây tạng, Ấn độ, và hiện giảng dạy tại Mỹ (vùng Boston):

Khi ngồi, ta hãyngồi như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đứng, ta hãyđứng lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đi, ta hãybước lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật
Khi suy nghĩ, tahãy suy nghĩ như một vị Phật. Hãy để cho Phật suy nghĩ xuyên qua tâm ta.
Khi thở, ta hãyhít thở như một vị Phật.
Hãy để cho Phậthít thở bằng thân xác ta.
Hãy để cho Phậtsống bằng thân xác ta. Hãy xem ta là một vị Phật.
Hãy tận hưởng sựtoàn thiện tự nhiên. Ta sẽ nhận thấy rằng ta giống rất nhiều với một vị Phật,nhiều hơn là ta đã tưởng.
(Lama Surya Das:Éveillez le Bouddha qui est en vous, nhà xuất bản Robert Laffont, 1998, 347trang, đoạn trích dẫn trang 129, sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh)

48 Thần linh biểu tượngcủa Trí tuệ.

49 Khi « lấy » tinhtrùng của một người đàn ông và trứng của một người đàn bà trong những điều kiệnnào đó, chính « người cho » và « người thực hiện » việc thụ thai trong ốngnghiệm đã mang những chủ đích rõ rệt và những kích thích tiềm ẩn. Kể cả trongngành chăn nuôi kỷ nghệ ngày nay (heo, bò, ngựa...), cũng cần phải kích thíchcon vật đực để lấy tinh trùng và chờ lúc thích hợp để đưa tinh trùng vào tửcung của con vật cái. Chính những chủ đích, xu hướng và những kích thích tiềmẩn như vừa kể đã tạo ra những điều kiện cần thiết hay môi trường (duyên) « thuhút » hoặc « ruồng bỏ » (tác động của nghiệp) liên hệ đến sự kết hợp trứng vàtinh trùng (quả của nghiệp); sự kiện thụ thai chỉ là cơ sở chuyên chở cho sựtái sinh.

50 Tức là thụ thai trongống nghiệm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 4542)
Trăm năm ngó xuống đời hư ảo - Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời.
08/08/2010(Xem: 9327)
Đức Phật đã nói rằng trong tất cả những mùa khác nhau để cày cấy, mùa thu là mùa tốt nhất, trong tất cả những loại nhiên liệu để đốt, thì phân bò là tốt nhất, và trong tất cả những loại tỉnh giác khác nhau, sự tỉnh giác về sự vô thường và cái chết thì hữu hiệu nhất. Cái chết là điều nhất định, nhưng khi nào nó giáng xuống thì bất định. Nếu chúng ta thực sự đương đầu với sự việc, chúng ta không biết được cái gì sẽ tới trước – ngày mai hay cái chết. Chúng ta không thể hoàn toàn quả quyết rằng người già sẽ chết trước và người trẻ còn ở lại phía sau.
04/08/2010(Xem: 3810)
Vào ngày 23 tháng 02 năm 2008, Hòa Thượng Thánh Nghiêm có cuộc nói chuyện với đức cha thiên chúa giáo Đơn Quốc Tỉ về quan điểm sinh tử. Hôm nay, Hòa thượng đã xã báo an tường, thu thần thị tịch, để tỏ lòng tưởng niệm đến cố giác linh Ngài, Biên tập viên Minh Bửu đã biên dịch lại cuộc đối thọai này.
04/08/2010(Xem: 4475)
Chết là chủ đề, hầu hết mọi người không muốn nghe, không muốn bàn đến hoặc nghĩ đến. Tại sao như vậy? Và cho dù, chúng ta thích hoặc không thích, thì mỗi chúng sẽ phải chết trong một ngày nào đó. Thậm chí trước khi đối mặt với cái chết của bản thân, chúng ta sẽ đối mặt với những cái chết của người khác ( người trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…) Chết là điều sẽ xảy ra, là phần của cuộc sống, vì vậy tốt nhất là chúng ta nên đón nhận nó với quan điểm tích cực hơn là sợ hãi và phủ nhận nó. Cuốn sách “ Chuẩn bị cho cái chết và giúp đỡ người chết ” được dịch từ nguyên tác của Sangye Khadro, sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về cái chết./.
04/08/2010(Xem: 7345)
Đối với đa số, cái chết thường được quan niệm như một vách ngăn giữa hai thế giới: người mất–kẻ còn, hay cõi âm và dương thế. Trong cái nhìn của đạo Phật, cái chết được xem là một phần tự nhiên của cuộc sống. Trước sự ra đi của người thân, nhiều người thường rất đau buồn, đôi khi quên đi những sự chăm sóc và giúp đở cho người đã khuất một cách thiết thực và ý nghĩa. Nhân mùa Vu Lan–Báo hiếu PL.2546-2002, NSGN giới thiệu cùng bạn đọc về lời của một người ở thế giới bên kia, nguyên giáo sư Đại Học Y Khoa Geneve (Thụy Sĩ) với các con của ông, và vài gợi ý về phương pháp chăm sóc, giúp đở người thân trong tình trạng đặc biệt: ốm đau nặng hoặc lâm chung...
04/08/2010(Xem: 3986)
Phật giáo trả lời khẳng định. Phật giáo cho rằng tất cả chúng sinh, trừ các bậc đã giải thoát khỏi sinh tử (các vị A La Hán của tiểu thừa giáo) hay là các bậc đã tự chủ đối với sinh tử (các bậc thánh Bồ Tát của đại thừa), còn thì tất cả đều ở trong vòng sinh tử luân hồi.
04/08/2010(Xem: 5254)
Là con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ. Do đó, chúng ta thường tránh né nghĩ về- quá trình đi đến- cái chết của chúng ta. Sogyal Rinpoche nói rằng, chúng ta hoặc trốn chạy cái chết, hoặc chúng ta thờ ơ không nghĩ về nó và cho đó là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, Rinpoche nói, sự chết đối với chúng ta lại là giây phút quan trọng nhất trong đời sống của mình. Rinpoche (tiếng Tây tạng có nghĩa là:“vật báu” ) là tác giả của cuốn sách “Tạng thư sống chết”. Cuốn sách này đã được bán 1 triệu 500 bản ngay lần xuất bản đầu tiên và gần đây đã được tái bản lần thứ 10.
04/08/2010(Xem: 6421)
"Đời sống mong manh, chết là điều chắc chắn" Đó là câu châm ngôn nổi tiếng trong Phật Giáo. Biết rõ Chết mong manh và là một hiện tượng tự nhiên mà mọi người phải đương đầu, chúng ta không nên sợ cái chết. Nhưng tất cả chúng ta đều sợ chết vì không nghĩ về điều không tránh được. Chúng ta thích bám víu vào đời sống, vào xác thân và phát triển quá nhiều tham dục và luyến ái.
04/08/2010(Xem: 7374)
Trong những lần trước, chúng ta đã tìm hiểu về đời sống bên kia cửa tử qua lời kể của những người đã chết rồi hồi sinh (Near death experience). Trong phần này chúng ta sẽ tìm hiểu về những áp lực vật chất đối với những người vừa từ trần. Theo kinh Địa Tạng, những người tạo ác nghiệp khi chết sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sanh. Ngạ quỷ là quỷ đói, bụng to bằng cấi trống nhưng cái họng chỉ bé bằng cái kim nên ăn uống mãi mà cũng không no. Có l điều này ám chỉ những vong linh còn nhiều dục vọng, vẫn thèm khát cái thú vui vật chất nhưng vì không còn thể xác để thỏa mãn nên bị dục vọng hành hạ biến thành một loài quỷ đói. Theo các sách vở viết về thế giới bên kia thì đay là một cõi được cấu tạo bằng những chất liệu rất thanh và nhẹ so với nguyên tử cõi trần nên muốn sống một cách thảnh thơi, các vong linh khi qua đay phải biết loại bỏ đi những phần tử nặng trược tích tụ trong kiếp sống ở cõi trần như dục vọng, sự quyến luyến, lòng ham ăn uống hay đòi hỏi xác thịt.
05/05/2010(Xem: 11883)
Đại lễ Kỳ Siêu ngày 18 tháng hai năm Giáp Ngọ tại chùa Phật Ân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567