Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Dạy Quán Niệm Sự Chết

29/12/201022:49(Xem: 3132)
Phật Dạy Quán Niệm Sự Chết
PHẬT DẠY QUÁN NIỆM SỰ CHẾT
Cư Sĩ Nguyên Giác

Chết là một tài sản chung, có sẵn nơi mọi người, không lìa một ai. Ông bà mình cũng đã thấy như thế, rằng từ cao nhất thế gian như một vị vua cũng phải chết và thấp nhất tới người mang nợ tứ phương cũng phải chết.

Tác phẩm Ca Dao Tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam do Thầy Lệ Như Thích Trung Hậu sưu tập đã ghi lại:

“Vua Ngô bâm sáu tàng vàng,
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Chúa chổm uống rượu tì tì,
Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô.””

Y hệt như không khí, chết là một đặc tính tự nhiên nằm sẵn trong các pháp. Chỉ thoát được khi đã đạt quả vô sinh, tức là vào thánh vị bất tử mà Đức Phật gọi là bậc A La Hán, hay là “đoạn diệt sinh tử.”

Đức Phật đã dạy nhiều pháp khác nhau cho nhiều bậc thánh đệ tử khác nhau. Trong đó, đặc biệt Đức Phật dạy rằng đời người chỉ trong một hơi thở ra, và hãy giữ chánh niệm về sự chết cho miên mật, đừng phóng dật.

Tại sao chúng sinh ưa thích hoan lạc, ưa thích “thọ lạc” hơn là “thọ khổ,” mà Đức Phật lại dạy niệm về sự chết?

Các pháp vốn là như thị, vốn là như thế, thấy ngay thực tướng các pháp, thấy ngay cái chết trong từng hơi thở của mình, thì sẽ xa lìa hết phiền não. Trong cái chết, không còn thời gian nữa, không có cái gọi là ngày hôm qua hay ngày mai, và cũng xa lìa hẳn cái mà các đạo độc thần thường gọi là “hiện tại nhiệm màu,” hay “hồng ân,” hay “ơn thánh linh.”

Hỷ lạc là một phần của định, và tu sĩ ngoại đạo khi đắc một phần định đã chấp hỷ lạc là ơn sủng từ Thượng Đế, nhằm “hiệp thông với con người.” Cho nên, bên Thiên Chúa Giáo La Mã có những khóa Tĩnh Tâm, và bên Tin Lành có những khóa Bồi Linh, giúp tín đồ định tâm và từ đây có hỷ lạc. Có một phần định, rồi có hỷ, có lạc... thế là vui sướng quá, sẽ thấy cõi này tuyệt vời vì đã “có ngài trong tôi.” Nhà Phật gọi như thế là chấp.

Thiền Nhà Phật sẽ bước qua giai đoạn này của định, và sẽ xả ly cả lạc và bất lạc.

Thiền là chánh niệm trong thực tướng, tức là trong thế giới hiển lộ tương ưng qua tâm mình, các sát na tâm sinh diệt liên tục trong luồng hộ kiếp.

Đức Phật dạy quán niệm về sự chết là để chúng ta nhìn ngay dòng chảy của nghiệp lực, để trực nhận tánh “vô thường” các pháp, để thấy tánh “vô ngã” trong dòng chảy tâm mình, và từ đây bước qua dòng sông sinh tử.

Niệm sự chết không có nghĩa là gớm bỏ sự sống. Thực ra lại là quý trọng sự sống. Bởi vì Đức Phật đã dạy rằng thân người khó được, Phật Pháp khó nghe.

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuốn The Path To Bliss đã viết, “... các bạn hãy có một niềm tin sâu sắc rằng thân mình hiện nay có tiềm năng lớn, và đừng bao giờ hoang phí dù một phút của thân này. Mặt khác, không tận dụng được thân người quý giá của bạn hiện nay, hay chỉ làm hoang phí, thì y hệt gần như là uống thuốc độc dù biết rõ ràng về hậu quả của việc như thế.”

Đừng phí một phút nào của đời mình. Cũng tương tự như Phật dạy, giữ chánh niệm về sự chết không lìa, vì nó nằm ngay từng hơi thở ra.

Quán niệm về sự chết là một pháp môn mãnh liệt. Không chỉ thích hợp cho người thành niên, mà còn thích hợp cho cả thiếu niên. Chính Đức Phật đã dạy một bé gái 16 tuổi quán niệm về sự chết, và cô này liên tục trong 3 năm đã quán niệm về sự chết.

Kinh kể rằng, Đức Phật về lại thành Alavi 3 năm sau, vì quán sát thấy bé gái đã sắp vào thánh quả Dự Lưu và biết cô sẽ chết ngay trong ngày gặp lại Đức Phật.

Tới đây, cần ghi chú giữa các bản dịch. Bản dịch Tích Truyện Pháp Cú do Thiền Viện Viên Chiếu thực hiện từ cuốn “Buddhist Legends” của Eugène Watson Burlingame nói rằng cô bé chết và lên cõi trời Đâu Suất. Tuy nhiên, bản Anh văn do Daw Mya Tin dịch từ tiếng Pali do Hội Burma Tipitaka Association Rangoon phổ biến thì chỉ nói đơn giản là cô chết vì tai nạn thoi dệt đâm trúng, nhưng không nói là sinh vào đâu.

Nhưng các dị bản cùng viết rằng, bé gái 16 tuổi đã nghe lời Phật dạy về quán niệm sự chết, tự cô tu bằng cách quán niệm sự chết “ngày và đêm,” và 3 năm sau (khi 19 tuổi) chỉ nghe Phật nói thêm mấy câu là đắc quả Dự Lưu.

Sau đây là trích “Tích Truyện Pháp Cú Tập 2,” bản dịch của Thiền viện Viên Chiếu, Phẩm XIII về “Cô Bé Dệt Vải”:

“...Một hôm, đức Phật đi đến Alavi. Dân chúng Alavi thỉnh Phật thọ trai. Thọ trai xong, đức Phật dạy một bài pháp ngắn:

"Hãy quán niệm về sự chết, các người hãy tự nhủ rằng: đời sống của ta mong manh. Cái chết của ta là điều cố nhiên. Chắc chắn ta sẽ chết. Cái chết sẽ chấm dứt đời ta. Đời sống không cố định, cố định là cái chết. Ai không quán niệm về sự chết, sẽ sợ hãi khi giờ lâm chung đến, và sẽ chết trong sợ hãi kinh hoàng, như một người đi đường gặp rắn, không có gậy trong tay, run rẫy dường nào. Còn người có quán niệm về sự chết, sẽ không sợ hãi trong giây phút cuối của cuộc đời, và như một người gan dạ thấy rắn từ xa, đã cầm gậy hất nó đi. Vì thế, hãy quán niệm về sự chết.”

Mọi người nghe xong lại trở về đời sống bình thường. Chỉ có một cô bé thợ dệt mười sáu tuổi tự nhủ "Lời dạy của đức Phật thật kỳ diệu, phần ta, ta sẽ quán niệm về sự chết.” Và cô bé quán niệm suốt cả ngày đêm. Đức Thế Tôn rời Alavi đến Kỳ Viên. Cô bé cũng tiếp tục quán niệm về sự chết trong ba năm.

Vào một ngày, sáng sớm Thế Tôn quán sát thế gian, Ngài nhìn thấy cô bé xuất hiện trong tầm quan sát của Ngài. Ngài tự hỏi "Những gì sẽ xảy ra?" Ngài chú ý đến sự diễn tiến tiếp theo: "Từ ngày cô bé này nghe Ta nói Pháp, đã thực hành quán niệm về sự chết trong ba năm. Bây giờ, Ta sẽ đế Alavi và hỏi cô bé ấy bốn câu, Ta sẽ khen cô bé, và Ta sẽ nói Pháp Cú: Đời này thật mù quáng. Nghe xong cô bé ấy sẽ chứng quả. Nhờ vậy, thính chúng sẽ thâm hiểu lời dạy của Ta. Thế là Thế Tôn cùng năm trăm Tỳ kheo lên đường đến Tinh xá Aggàlava.

Dân chúng Alavi nghe tin Thế Tôn đến, họ vào Tinh xá thỉnh Phật thọ trai. Cô bé con người thợ dệt cũng nghe tin ấy, tràn đầy hân hoan. Cô nghĩ: "Thế Tôn đã đến, bậc từ phụ của ta, bậc đạo sư, bậc Thầy quý kính dung mạo như trăng rằm, đức Cồ Đàm Phật Đà.” Cô tự nhủ "Bây giờ, lần đầu trong ba năm nay, ta mới gặp Thế Tôn, người thân sắc vàng chói, giờ đây ta được đảnh lễ thân kim sắc của Ngài, và nghe Ngài giảng pháp vi diệu thấm đầy mật ngọt.”

Nhưng cha cô trước khi đến xưởng dệt, đã dặn cô:

- Này con, trên khung cửi của cha còn một khổ vải chưa dệt xong, cha phải dệt xong hôm nay. Con hãy quấn chỉ vào thoi cho đầy và mang gấp đến cha.

Cô gái nghĩ thầm: "Ta rất mong được nghe đức Phật thuyết pháp, nhưng cha ta đã căn dặn như thế. Ta sẽ đi nghe pháp hay đánh sợi cho cha ta?" Cô nghĩ tiếp: "Nếu ta không mang thoi đến, cha ta sẽ đánh ta. Vậy thì phải đánh sợi cho đầy mấy con thoi, đem đến cho ông, đợi dịp khác đi nghe pháp.” Cô ngồi vào ghế và đánh sợi.

Dân chúng Alavi đợi chờ Thế Tôn, cúng dường thức ăn, sau khi ăn xong họ dọn bát và nghe Ngài chỉ dạy. Đức Thế Tôn tự nhủ: "Ta đến đây qua một khoảng đường ba mươi dặm chỉ vì một cô bé, cô ấy chưa có mặt. Khi cô ấy đến, Ta sẽ giảng pháp.” Vì thế, Ngài ngồi im, thính chúng cũng lặng yên đợi chờ...”(hết trích)

Đọc tới đây, chúng ta thấy Đức Phật rất mực từ bi. Đi ba mươi dặm, tới ngồi chờ một cô bé, người đã quán niệm về sự chết từ 3 năm.

Khi cô tới, Đức Phật ra dấu bảo cô bé vào giữa pháp hội. Đức Phật hỏi, nơi đây sẽ dịch phần vấn-đáp theo bản Daw Mya Tin:

(1) Con từ đâu tới? (1) Bạch Thế Tôn, con không biết.

(2) Con sắp đi đâu? (2) Con không biết.

(3) Có phải con không biết? (3) Vâng, con biết.

(4) Con có biết không? (4) Bạch Thế Tôn, con không biết.

Thính chúng không hiểu, khi nghe như thế. Bấy giờ, Đức Phật yêu cầu cô giải thích, và cô nói, “Bạch Thế Tôn! Bởi vì ngài biết con từ nhà tới, nên câu hỏi đầu tiên là Thế Tôn hỏi con từ kiếp quá khứ nào tới, con mới nói là không biết. Câu thứ nhì là hỏi về kiếp vị lai, con mới nói là con không biết. Câu thứ ba Thế Tôn hỏi là con có biết rằng con sẽ chết một ngàỳ nào đó, con mới đáp là con biết. Câu cuối Thế Tôn hỏi là con có biết khi nào con sẽ chết, con mới nói con không biết.” (hết trích dịch)

Bấy giờ, Phật mới nói bài kệ thứ 174 trong Kinh Pháp Cú. Lập tức, cô chứng quả Dự Lưu. Khi về nhà, cha cô kéo thoi dệt, vô ý trúng ngực cô, làm cô chết tức khắc. Bấy giờ, người cha xin xuất gia, tu học và rồi chứng quả A La Hán.

Như thế, chúng ta thấy pháp môn quán niệm sự chết thích nghi cả cho thiếu niên và có diệu dụng vô lường.

Chúng ta có thể tu quán niệm sự chết ra sao? Bạn hãy thử, diệu dụng có thể thấy ngay trong vòng mươi phút, hay nửa tiếng. Bạn hãy nằm duỗi thẳng người, hình dung rằng mình đã chết từ đầu tới chân, tất cả các tâm vui mừng hờn giận tự nhiên biến mất dễ dàng, bắp thịt toàn thân thư giãn ra, các niệm trong tâm tự biến mất. Khi tập cảm nhận sự chết, điều duy nhất bạn sẽ thấy là toàn thân chỉ còn luồng hơi thở phập phồng, dịu dàng. Hãy giữ tâm thức đó.

Đi đứng nằm ngồi, bạn cũng hãy cảm nhận là đang chết, và sẽ thấy chỉ còn duy nhất một hơi thở là cái giữ thân thể bạn với cõi này. Hãy tập như thế trong một buổi, trong một ngày, và rồi cả đời. Cô bé 16 tuổi tập được, và tất cả chúng ta đều tập được. Không hoang phí một phút nào cả. Rồi sẽ cảm nhận sự chết, tự nhiên như sự sống, gắn bó trong hơi thở, phập phồng, dịu dàng.

Và như Đức Phật dạy, chúng ta sẽ bước qua cõi sinh tử này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/06/2013(Xem: 10104)
HỎI: Bạn có tin tưởng tái sinh không? ĐÁP: Vâng, tôi tin. Nhưng, phải lâu lắm tôi mới đạt đến điểm này. Tin tưởng tái sinh không đến một cách ngay lập tức. Một số người có thể đến từ một truyền thống tin tưởng ở tái sinh như một phần trong nếp sống văn hóa. Đây là trường hợp trong nhiều quốc gia Á châu, và vì thế, vì người ta đã từng nghe về tái sinh từ khi họ còn là những thiếu niên, sự tin tưởng điều ấy trở thành một cách tự động. Tuy nhiên, những điều ấy đối với chúng ta từ những nền văn hóa Tây phương, nó dường như lạ lùng lúc ban đầu. Chúng ta thường không dễ bị thuyết phục trong vấn đề tái sinh ngay tức thì, với những cầu vồng và âm nhạc phía sau lưng và “Chúa nhân từ ơi! Bây giờ tôi tin!” Nó không thường hoạt động như thế.
23/04/2013(Xem: 7593)
Lần tay tính lại sổ đời, Kiếp người chìm nổi vận thời rủi may... Bạch Vân Nhi
11/04/2013(Xem: 8412)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
11/04/2013(Xem: 5376)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
10/04/2013(Xem: 3542)
Theo một số sách viết không chủ trương có khoảng thời gian từ khi chết đến lúc tái sinh, nghĩa là sau khi chết tái sinh liền vào một trong sáu cõi. Nhưng theo Kinh sách Tây Tạng lại viết: “Sau khi chết, có trạng thái của “Thân trung ấm”, tức là có người sau khi chết tái sinh liền, có người tái sinh sau 1, 2, 3, 4 . . . ngày cho đến chậm nhất là 49 ngày”.
08/04/2013(Xem: 17746)
Khi nói đến Nhân và Quả tức là bao hàm ý nghĩa rộng lớn của Luân hồi. Luân hồi là sự chuyển biến xoay vần trở lại. Con người chết đi không phải là hoàn toàn mất hẳn. Thân xác sẽ tan rã theo cát bụi nhưng còn một phần vô cùng linh hoạt và vẫn hiện hữu đó là linh hồn. Mọi sự, vật trong vũ trụ, thiên nhiên đều chịu sự tác động của luân hồi, nhân quả. Như nước chẳng hạn, trong thiên nhiên, nuớc bốc thành hơi, hơi nước đọng lại thành mây rơi xuống thành mưa, mưa chảy tràn ra đất, qua sông suối, hồ và chảy ra biển.
08/04/2013(Xem: 23144)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
08/04/2013(Xem: 12765)
Tôi viết tác phẩm này nhằm chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết với bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu về cái chết. Suy nghĩ về cách chúng ta có thể trực diện với cái chết – bằng can đảm và tính thanh thản, có phẩm cách.
08/04/2013(Xem: 13568)
Sách "Chết và Tái Sanh" hội đủ nhân duyên dược tái bản do nhu cầu độc giả gia tăng tại Úc, dựa hai điểm chính sau: Thứ nhất, ấn bản lần đầu tiên, 1000 cuốn vào tháng 10 năm 2000, đã phân phối rộng rãi nhiều nơi tại Úc và Việt Nam. Sau hơn 2 tháng, vào cuối tháng 12, sách đã hết sạch, có nhiều người muốn đọc mà không tìm thấy sách nữa. Thứ hai, sách đã được đài phát thanh SBS (Syndey) trang trọng giới thiệu trong chương trình toàn quốc vào sáng ngày 31 tháng 12 năm 2000, sau đó có rất nhiều thính giả hoặc trực tiếp hoặc bằng điện thoại hỏi thỉnh sách.
08/04/2013(Xem: 15386)
Khi còn là một đứa bé ở Tây Tạng, thỉnh thoảng tôi tìm thấy mẹ tôi, Delog Dawa Drolma, được vây quanh bởi những thính giả đang lắng nghe hết sức chăm chú khi bà nói về những cuộc du hành của mình tới các cõi giới khác. Khuôn mặt bà sáng ngời khi đề cập tới các bổn tôn trong các cõi thanh tịnh; những giọt nước mắt tuôn rơi khi bà tả lại những khốn khổ của chúng sinh trong địa ngục và các ngạ quỷ (preta), hay các sinh linh đau khổ. Bà nói về sự gặp gỡ những thân quyến đã chết của những người nào đó, và bà tiếp âm từ người chết tới người sống những mối bận tâm về những công việc không ngừng dứt (có thể là những đồng tiền hay châu báu được chôn dấu mà không thể xác định vị trí) hoặc những van nài khẩn thiết xin được cầu nguyện hoặc cử hành các buổi lễ. Bà cũng đem về lời dạy tâm linh của những đạo sư (lama) cao cấp đã ra đi từ thế giới này và các đạo sư ở bờ bên đây của cái chết đã đáp lại nó bằng sự cung kính sâu xa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567