Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh sáng màu sắc thấy ở giai đoạn trung ấm

06/05/201319:29(Xem: 8230)
Ánh sáng màu sắc thấy ở giai đoạn trung ấm

Qua Cửa Chuyển Tiếp

Ánh Sáng Màu Sắc Thấy Ở Giai Đoạn Trung Ấm

Đoàn Văn Thông

Nguồn:Đoàn Văn Thông


Kinh sách cổ Tây Tạng kể chi tiết về màu sắc thấy nơi cõi Trung ấm như sau: màu sắc cầu vồng, ánh vàng chói mọi rực rỡ khó chịu đựng nổi khi thấy chính là ánh sáng trí tuệ phát ra từ cõi tốt lành hay Cõi Phật. Nếu người Chết đã được truyền dạy, căn dặn, học hỏi được khi đang còn sống thì lúc này Thần thức sẽ an tâm nương vào ánh sáng ấy để tới mặc cho ánh sáng quá chói chang làm cho khiếp sợ. Ánh sáng màu xanh dịu chính là ánh sáng của cõi người, nơi mà bất kỳ ai cũng đều phải trải qua sự khổ đau tàn hại của Sanh, Già, Bệnh, Chết.. Khi vào đó rồi thì sự giải thoát rất khó khăn. Nhưng theo các vị Lạt Ma Tây tạng thì nguyên nhân khiến Thần thức chuyển vào cõi màu xanh ấy là do khi sống, con người ta hay bị cái Tham, sân, Si làm mê mờ. Sống chỉ thích cho an nhàn, khoẻ khoắn, thích có nhiều của cải bạc tiền, thích vật chất, sắc đẹp, danh vọng, chức quyền, ăn ngon mặc đẹp vân vân... ghét giận những ai hơn mình, căm thù những ai làm mình đau khổ... Lâu dần (trải qua một đời làm người) những xấu tánh ấy trở thành tập quán khó bỏ nên khi thấy ánh sáng êm dịu mát mẻ thì vội tìm đến, thấy ánh sáng chói chang thì khiếp sợ tránh xa chớ không biết đâu là tốt, đâu là xấu - cũng giống như khi còn sống, thấy ai nịnh bợ, tâng bốc, ton hót, khen ngợi mình thì thích thú thấy ai nói thật, lờí thẳng, trung trực, công minh thì ghét bỏ giận hờn tránh xa - cái thói quen ấy đã ăn sâu vào tâm trí lúc còn sống nên lúc lâm chung - dù xác thân bất động, chết hẳn rồi nhưng Thần thức thoát ra vẫn còn mang nặng cái ký ức, bản tánh như lúc còn sống nên rất dễ lầm lạc khi ờ vào giai đoạn Trung ấm. Vì thế các vị thầy thường khuyên đệ tử hãy tập ngay từ bây giờ, khi con đang còn sống hãy học xả bỏ dần cái tánh tham lam, sân hận, kiêu căng, si mê lầm lạc để lúc lâm chung không bị những cái xấu xa ấy dẫn ta vào những cõi xấu xa mê mờ nguy hiểm của lục đạo.

Tuy vậy, con người ta không ai giống ai, có người bản tánh rất xấu xa độc ác nhưng không bao giờ biết hối cải ân hận chớ đừng nói tới chuyện tu tập. Những người như thế khi phút lâm chung đến, họ thường bất loạn tâm thân vì ác nghiệp tràn tới làm họ kinh hãi. Họ khó chấp nhận hay tin vào những gì mà người thân cầu nguyện hay giải thích cho họ bên giường. Với bản chất mê mờ ấy họ sẽ vô cùng khiếp sợ khi thấy ánh sáng chói chang vàng rực toả ra nơi cõi Trung ấm – Khi thấy ánh sáng xanh xuất hiện, họ sẽ trốn ngay vào nơi có ánh sáng xanh dịu ấy để tìm chỗ nương thân ẩn náu – đó cũng chính là nơi mà họ sẽ trở thành người chịu trả quả - ác nghiệp mà họ đã gây ra. Theo kinh điển Tây tạng thì một vị Phật nguyện quyết tâm cứu vớt và dẫn dất các vong linh trót mang nghiệp chướng mà tâm thức u tối mê mờ - Vị Phật ấy là Phật A Di Ðà – Ngài sẽ xuất hiện tiếp nối để dẫn dắt cho kẻ lầm mê thêm một lần nữa bằng cách toả ánh sáng dẫn đường màu đỏ chói - hầu giúp Thần thức kẻ mới lìa đời nương theo – Nhưng lúc ấy, từ cõi Ngạ quỷ súc sanh phát ra ánh sáng màu xám mờ đục - Nếu tâm thức sáng suốt an lạc thì sẽ biết nương vào ánh sáng của Phật A Di Ðà – Nhưng kẽ mà lúc còn sống đã làm những việc ác, xấu xa đê tiện thì bản tính luôn tối tâm, thấp hèn, gian xảo nên thường có thói quen tìm những nơi tối tâm, mờ mịt để ẩn thân, trốn tránh... Vì thế mà thay vì khi thấy màu sáng đỏ ác chúng lại sợ hãi, nghi ngờ tìm tới nơi ánh sáng mờ đục tối tâm để nương thân mà không ngờ đó là coi địa ngục xấu xa ghê rợn.

Những bậc Ðại sư những vị thầy thường khuyên những thân nhân có người sắp lìa đời hãy nhớ hổ trợ thêm cho người ấy bằng cách:

- Ngồi bên họ nói cho họ nghe về vấn đề vừa trình bày trên.

- Hãy cầu nguyện cho tâm thức họ được trong sáng để họ nhận thức đúng khi nhìn thấy ánh sáng - ở giai đoạn Trung ấm.

- Hãy nói với họ là nếu trông thấy ánh sáng màu vàng chói chang rực rỡ thì đừng có sợ hãi – vì đó là Phật quang – là ánh sáng của Trí tuệ tốt lành – hãy tin tưởng mạnh mẽ vào ánh sáng đó, an tâm tiến vào đó để được vãng sanh an lành vào nơi tịnh độ... Còn khi thấy màu xanh êm dịu thì không nên chạy vào nơi đó – vì nơi đó là cõi người – vào đó sẽ lại chịu những sinh tử triền miên, nhữn thói hư tật xấu làm phát sinh vô số nghiệp, khó lòng thoát khỏi....

Tử thư Tây tạng ghi rằng: Một khi người thân làm được điều vừa nói trên bên cạnh người sắp mất thì kết quả mang lại thường rất tốt lành. Dù cho người sắp mất lúc còn sống họ tạo nhiều ác nghiệp, hành động xấu xa thì lúc lâm chung nghe được lời nói và lời cầu nguyện giãi bày về ánh sáng nơi cõi Trung ấm sẽ có lợi nhiều cho họ vì một khi họ đã ghi nhận những híểu biết ấy với niềm tin tưởng nhiệt tình thì sẽ phần nào làm đổi thay nghiệp lực của họ dù cho đó là nghiệp xấu, ác.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao sau khi chết lại có khi phải qua giai đoạn Trung ấm lâu ngày mà không đầu thai ngay? Câu trả lời là: do kiếp đời của một người tích chứa vô số nghiệp mà nghiệp đủ loại xấu tốt chồng chất nhau khi sống, không những ở kiếp hiện tại mà từ nhiều kiếp đời trước đó nữa? Có khi được nhiều Thiện Nghiệp tốt lành nhưng rồi phát sinh các nghiệp xấu ác kế tiếp khiến nghiệp thiện bị giải trừ đi nhiều ít khiến sự mất cân bằng về thiện ác, sự tăng giảm thiện ác qua lại này sẽ hướng dẫn Thân Trung ấm tới cõi giới tương ứng với Nghiệp xấu hay tốt mà người chết ấy đã tạo nên để đầu thai. Vì phải hội đủ điều kiện thuận lợi và tương ứng với Nghiệp để đầu thai cho xứng hợp nên không phải tức thì được mà có khi lâu.

Vì Nghiệp quan trọng khi đầu thai nên các Vị chân tu thường khuyên thân nhân nên hổ trợ thiện nghiệp cho người mới qua đời trong thời gian ít nhất là 49 ngày - kể từ khi người ấy mất (vì trong khoảng thời gian đó vong linh người mới chết ở vào giai đoạn được quyết định đầu thai dưới hình thức nào tùy theo duyên nghiệp của họ tạo lúc còn sống). Theo lời khuyên của các vị chân sư thì thân nhân nên làm việc phước thiện, ăn chay, bố thí, đọc kinh, tụng kinh siêu độ, vừa trợ lực tạo phước thay người mới mất và giúp họ sáng suốt để khỏi lạc vào cõi giới u tối xấu xa.

Tuy những điều khuyên của các vị chân tu vừa mô tả trên thường ít được thực hiện do bởi nhiều lý do: như có người không tin, cho rằng chết là hết, hay vì quá thương xót nên chỉ biết than khóc, chớ không biết làm gì hơn vào những lúc đau khổ đó. Trái lại nhiều gia đình vào lúc ấy lại lo tổ chức tang ma cho lớn, xe cộ rình rang, trướng liểng giăng đầy, xe cộ dập dìu đồ ăn thức uống tràn ngập, người đưa đám càng đông càng nở mặt nở mày với thiên hạ bà con. Nhưng họ không biết rằng chính lúc đó, vong linh người mới mất vô cùng đau đớn xót xa, hoang mang, mờ tối, phân vân lo sợ trước sáu ngả luân hồi (lục đạo), những giờ quyết định sinh mệnh cuộc đời mới qua đầu thai chuyển kiếp hết sức gay go nghiệt ngả… họ bơ vơ, đơn độc mà nào ai có thể biết tới, hổ trợ hay giúp đỡ - mà giúp làm sao được khi cõi sống và cõi chết cách ly nhau? Chỉ có vấn đề - trợ lực mà các vị chân sư từng chỉ bày là cách nên làm nhất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2014(Xem: 12513)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 7406)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
26/09/2014(Xem: 7420)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập lại tương tự như một chiếc bánh xe xoay tròn bất tận. Thế nhưng đồng thời theo lời giáo huấn của Đức Phật thì mười hai mối dây tương liên trong chu kỳ đó cũng có thể vận hành theo chiều đảo ngược và mang lại sự giải thoát.
18/09/2014(Xem: 6458)
Bùi Ngọc Thịnh (sinh năm 2000, tại tổ 17, Ninh Hiệp, Ninh Hòa, Khánh Hòa), mù cả hai mắt từng được ghi vào kỷ lục châu Á vì chơi được 7 loại nhạc cụ.
10/09/2014(Xem: 7751)
Con người trước khi chết đều trải qua giai đoạn hấp hối, đó là biểu hiện trước khi từ giã cõi đời. Lúc ấy, con người cần thức tỉnh, chấn chỉnh tinh thần, biết cuộc đời này là vô thường, duyên sinh, huyễn mộng, không thật, an trú trong hiện tại, vững tin Tam bảo và chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng để ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Tại sao gọi chết là một quy luật tự nhiên?
26/08/2014(Xem: 9570)
Với niềm tin rằng từ bỏ cõi đời ở thành phố linh thiêng Varanasi và ngâm mình dưới dòng sông Hằng thì linh hồn sẽ được gột rửa, nhiều người ở Ấn Độ tìm đến thành phố đó để chờ chết.
17/08/2014(Xem: 23114)
Đặc tính: Tự thể của thân trung ấm mang 5 đặc tính:[38] 1. Nó có đầy đủ các giác quan. 2. Vì nó sinh ra một cách tự nhiên, tất cả các chi (tay chân) chính và phụ của nó sinh ra đầy đủ đồng thời với thân. 3. Vì nó có thân vi tế nên không thể bị tiêu diệt dù bằng vật cứng như kim cương. 4. Trừ nơi tái sinh của nó như là trong dạ con, bụng của người mẹ, ngoài ra không vật gì có thể cản được thân trung ấm đi qua, dù là núi non, hàng rào v.v...
04/08/2014(Xem: 6803)
Trong các thử nghiệm DNA xác định con ruột của bố mẹ, các nhà khoa học đã phát hiện trường hợp đứa trẻ không có liên hệ sinh học với người mẹ, mà chúng mang một DNA khác. Người mẹ trẻ ở bang Washington, Mỹ đã phải đấu tranh với tòa án để giữ đứa bé mà cô mang nặng đẻ đau, vì theo xét nghiệm nó không phải là con ruột cô. "Cô là ai? Cô đang âm mưu gì với bọn trẻ?"
07/06/2014(Xem: 12072)
Cassidy Hooper sống ở Bắc California, Mỹ đã 17 năm gắn bó với căn bệnh quái ác không cách nào chữa được: bẩm sinh không có mắt và mũi. Sắp tới đây, em sẽ tiếp tục tham gia ba ca phẫu thuật nữa tại Bệnh viện nhi đồng Levine. Các bác sĩ sẽ dùng xương, sụn ở phần xương đầu với nỗ lực tái tạo chiếc mũi mới cho em. Cassidy đã vô cùng hạnh phúc khi nghe được tin vui này. Như vậy, lần đầu tiên trong đời em sẽ được trải nghiệm cảm giác thở bằng mũi và dùng nó để cảm nhận mùi hương khác nhau của thế giới xinh đẹp này.
21/05/2014(Xem: 6465)
Làm Gì Có Chết Thật ra không hề có cái gọi là Chết, bạn có tin không? Giả dụ, khi bạn thay một chiếc áo mới thì chiếc áo vừa được thay ra bạn có nói rằng chiếc áo kia đã.. ''chết'' không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]