Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 10

16/04/201312:11(Xem: 10717)
Chương 10

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 10

Tâm tái tục

-ooOoo-

Nhiều khi có những tâm phát sanh biết những cảnh khác nhau xuyên qua ngũ căn và ý môn. Khi tâm nhãn thức và nhĩ thức phát sanh thì chúng ta tham đắm vào chúng. Những tâm này phát sanh vì những nhân duyên khác nhau. Tâm nhãn thức và tâm tham biết cảnh sắc không phát sanh cùng một lúc, chúng thì khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chúng ta sẽ hiểu nhiều về các loại tâm nếu, chúng ta biết chúng phát sanh theo thứ tự và chúng có chức năng gì. Mỗi tâm đều có chức năng riêng của nó (Kicca). Tâm có tất cả 14 chức năng.

Tâm phát sanh ở thời điểm đầu tiên của kiếp sống cũng phải có một chức năng. Tái sanh là gì, và thật sự cái gì đi tái sanh? Chúng ta nói đến sự tái sanh của một em bé, nhưng trong thực tế, chỉ có danh và sắc tái sanh. Tái sanh là danh từ tục đế. Chúng ta nên xem xét tái sanh thật sự là gì. Danh và sắc sanh diệt luôn luôn và như vậy luôn luôn có sanh tử. Ðể hiểu nguyên nhân tái sanh, chúng ta nên biết những lý do nào danh sắc phát sanh ở khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống mới.

Ðiều gì phát sanh đầu tiên của đời sống chúng ta, danh hoặc sắc? Ở bất cứ khoảnh khắc nào của đời sống, chúng ta cũng đều có cả danh lẫn sắc. Trong các cảnh giới có năm uẩn (4 danh uẩn và một sắc uẩn), danh không thể phát sanh mà không có sắc; tâm không thể phát sanh mà không có thân [1]. Ðiều gì chúng ta làm tốt cho bất cứ khoảnh khắc nào của đời sống thì cũng làm tốt cho khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống chúng ta. Ở khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống chúng ta, danh và sắc phải phát sanh cùng một lúc. Tâm phát sanh và lúc đó gọi là tâm tái tục (patisandhi citta) [2]. Vì không có tâm nào phát sanh mà không có nguyên nhân. Tâm tái tục cũng phải có nguyên nhân. Tâm tái tục là tâm đầu tiên của kiếp sống mới và như vậy nguyên nhân của nó có thể là trong quá khứ. Người ta có thể hoài nghi về kiếp quá khứ, nhưng nếu không có kiếp quá khứ thì làm thế nào con người có thể khác biệt như vậy? Chúng ta có thể thấy rằng con người sanh ra có những nghiệp lực khác nhau. Chúng ta có thể giải thích cá tính của một em bé chỉ do cha mẹ? Ðiều chúng ta muốn nói thật sự "cá tính" là danh. Cha mẹ có thể chuyển đổi thêm danh pháp nữa mà nó diệt ngay khi nó phát sanh? Chắc chắn có những nhân tố khác làm trợ duyên cho cá tính của một em bé. Các tâm sanh diệt nối tiếp lẫn nhau và như vậy mỗi tâm trợ duyên cho tâm kế. Tâm cuối cùng của kiếp quá khứ (tâm tử ) được nối tiếp bởi tâm đầu tiên của kiếp sống này. Cho nên những khuynh hướng ngủ ngầm mà người ta tạo trong kiếp quá khứ có thể liên tục bằng cách liên tục từ tâm này đến tâm kế và từ kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại. Bởi vì người ta đã huân tập những huynh hướng ngủ ngầm trong kiếp quá khứ khác nhau, nên họ tái sanh có nhũng huynh hướng ngủ ngầm và những sở thích khác nhau.

Không những chúng ta thấy rằng, con người có những đặc tính khác nhau, mà còn thấy rằng họ tái sanh trong những hoàn cảnh khác nhau; một số người tái sanh trong những hoàn cảnh thuận lợi và một số người khác tái sanh trong hoàn cảnh khổ đau. Ðể hiểu rõ điều này chúng ta không nên chấp những danh từ tục đế như "con người" hoặc "hoàn cảnh". Nếu chúng ta suy nghĩ theo pháp chân đế, chúng ta sẽ thấy rằng, chúng sanh sống trong hoàn cảnh hạnh phúc hoặc đau khổ thì không có gì khác, ngoại trừ việc cảm nhận những đối tượng lạc và bất lạc xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân căn. Ðó là quả thiện hoặc quả bất thiện. Quả không phát sanh mà không có nhân duyên; nó là nguyên nhân của nghiệp thiện hoặc nghiệp bất thiện. Con người khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau và mỗi hành động mang lại kết quả riêng của nó. Sự thật là con người tái sanh trong những hoàn cảnh khác nhau phải có một nhân duyên: nó là duyên nghiệp đã tạo trong kiếp sống quá khứ. Nghiệp dẫn dắt con người tái sanh. Tâm tái tục là kết quả của nghiệp.

Trên thế gian này, chúng ta thấy sự tái sanh khác nhau của con người và loài thú. Khi chúng ta so sánh kiếp sống của loài thú với kiếp sống con người, chúng ta nhận thấy rằng tái sanh kiếp thú thì đau khổ; nó là quả bất thiện. Tái sanh kiếp người là quả thiện, cho dù con người sanh ra gặp phải nghèo khó hoặc phải chịu đựng nhiều điều bất hạnh suốt đời sống của họ. Sở dĩ tâm tái tục của con người có những mức độ quả thiện khác nhau bởi vì con người đã tạo nghiệp thiện ở những mức độ khác nhau.

Ở khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống, nghiệp tạo tâm tái tục và đồng thời sắc cũng phải phát sanh. Người ta có thể tự hỏi nguyên nhân gì sắc pháp phát sanh vào khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống. Chúng ta thấy rằng, con người tái sanh có những đặc điểm về thân khác nhau: có người mạnh, kẻ yếu, có người bị tật nguyền khi sanh ra. Ðiều này phải có nguyên nhân của nó. Ðó là nghiệp duyên khiến cho cả danh lẫn sắc tái sanh.

Sắc pháp chúng ta có thể gọi là "sắc chết" và sắc pháp chúng ta cũng có thể gọi là "cây" do nghiệp tạo? Cây thì không có "tái sanh" bởi vì cây thì không có tạo nghiệp thiện và nghiệp bất thiện; nó không có nghiệp khiến cho sự tái sanh của nó. Thời tiết là điều kiện cho sự sống của cây. Ðối với con người, nghiệp tạo ra sắc pháp ở sát na tâm tái tục phát sanh. Không có kiếp sống, nếu nghiệp không tạo ra sắc pháp từ khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống. Có bốn yếu tố tạo ra sắc thân khác nhau. Như chúng ta biết nghiệp là một yếu tố. Những yếu tố khác là: tâm, thời tiết và vật thực. Nghiệp tạo ra sắc pháp ở sát na tâm tái tục phát sanh và sau đó những yếu tố khác cũng bắt đầu tạo ra sắc pháp. Thời tiết tạo ra sắc pháp; nếu không có thời tiết thích hợp thì kiếp sống mới không thể phát triển. Thời tiết tạo ra sắc pháp suốt cả kiếp sống. Ngay khi tâm tái tục diệt, ở sát na tâm kế tiếp phát sanh, tâm cũng bắt đầu tạo ra sắc pháp, và nó tạo ra sắc pháp suốt cả kiếp sống của chúng ta. Xa hơn nữa, vật thực tạo ra sắc để cho sắc thân phát triển. Nó tạo sắc pháp suốt cả đời sống của chúng ta. Như vậy chúng ta thấy rằng có bốn yếu tố tạo ra sắc thân.

Ðối với sắc pháp không hiện hữu trong thân mà hiện hữu bên ngoài, như sắc trong vật liệu hư hoặc cây chết, những sắc này duy nhất do thời tiết tạo ra.

Nghiệp tạo ra sắc pháp không những ở khoảnh khắc đầu tiên của kiếp sống mà suốt cả cả đời sống của chúng ta. Nghiệp không những tạo ra tâm quả mà nó biết cảnh lạc hoặc bất lạc qua căn môn, mà nó còn tạo ra suốt cả kiếp sống của chúng ta những sắc pháp mà có chức năng như căn môn do những cảnh này chúng được tiếp nhận. Ví dụ chúng ta có thể tạo ra nhãn căn riêng của chúng ta? Nó không thể do thời tiết tạo ra, mà chỉ do nghiệp tạo. Sự ghép mắt không thể thành tựu ngoại trừ nghiệp tạo ra nhãn căn trong thân của người tiếp nhận.

Sự tái sanh bằng thai bào của người mẹ không phải là cách duy nhất của sự tái sanh. Chúng ta học Phật pháp thấy rằng có bốn cách tái sanh khác nhau: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh.

Người ta muốn biết khi nào sự sống bắt đầu trong bào thai của người mẹ. Chúng ta không thể xác định khoảng thời gian chính xác. Sự sống bắt đầu ở sát na tâm tái tục đồng sanh cùng một lúc với sắc do nghiệp tạo. Một kiếp sống chấm dứt khi tâm tử diệt. Cho đến khi nào tâm tử chưa diệt thì người vẫn còn sống. Người ta không thể biết khoảng thời gian tâm tử của người khác sanh và diệt ngoại trừ người đó có tha tâm thông. Ðức Phật và đệ tử của ngài đã có tâm này cho nên có thể biết chính xác thời gian chết của người khác.

Chúng ta có thể tự hỏi, nghiệp gì trong kiếp sống của chúng ta tạo ra tâm tái tục của kiếp sống kế. Một số người tin rằng, do làm nhiều hành động thiện trong kiếp này cho nên họ tin chắc sự tái sanh của họ an vui. Nghiệp tạo ra sự tái sanh thì không cần thiết từ kiếp này. Trong quá khứ cũng như trong kiếp hiện tại chúng ta đã tạo nghiệp bất thiện lẫn nghiệp thiện và những nghiệp này có những mức độ khác nhau. Một số nghiệp trổ quả trong cùng một kiếp mà chúng ta đã tạo, một số nghiệp trổ quả trong hình thức tâm tái tục của kiếp tương lai, hoặc chúng trổ quả trong tiến trình của kiếp tương lai. Chúng ta thực hiện những hành động trong kiếp quá khứ có thể dẫn đến tái sanh nhưng chưa trổ quả. Chúng ta không biết nghiệp nào sẽ tạo ra sự tái sanh kế tiếp của chúng ta.

Nếu nghiệp bất thiện dẫn đến sự tái sanh của kiếp sống kế sẽ có sự tái sanh đau khổ. Trong trường hợp này những tâm phát sanh trước sát na tâm là tâm bất thiện và chúng biết một cảnh bất lạc. Tâm tái tục của kiếp sống kế tiếp nối tâm tử, chúng biết cùng cảnh bất lạc đó. Nếu nghiệp thiện dẫn đến sự tái sanh thì sẽ có sự tái sanh an vui. Trong trường hợp này tâm thiện phát sanh trước sát na tâm tử và chúng biết cảnh lạc, Tâm tái tục của kiếp sống kế biết cùng cảnh lạc đó.

Người ta muốn biết chính xác về sự tái sanh an vui của mình bằng cách kiểm soát những tâm cuối cùng trước tâm tử, bằng cách tạo cho họ có tâm thiện không? Một số người mời chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho người sắp chết để giúp họ có nhiều tâm thiện. Tuy nhiên, không ai bảo đảm rằng sự tái sanh của người đó sẽ an vui, hạnh phúc, ngoại trừ người đó đạt được một trong bốn từng thánh. Tâm luôn luôn khống chế chúng ta. Bây giờ chúng ta có thể kiểm soát tâm của chúng ta được không? Vì chúng ta không thể thực hiện được điều này, làm thế nào chúng ta có thể kiểm soát tâm của chúng ta ở thời điểm trước khi chết? Không ai có thể quyết định về sự tái sanh của mình trong kiếp sống tương lai. Sau những tâm bất thiện và những tâm thiện cuối cùng trong đời sống đã diệt thì tâm tử phát sanh. Tâm tử được nối tiếp bởi tâm tái tục của kiếp sống tương lai. Khi tâm tái tục phát sanh thì một kiếp sống mới lại bắt đầu. Khi nào còn nghiệp thì vẫn còn kiếp sống tương lai.

Tâm tái tục thực hiện nhiệm vụ tái sanh. Nó "nối liền" kiếp sống quá khứ với kiếp sống hiện tại. Bởi vì chỉ có tâm đầu tiên của kiếp sống thực hiện nhiệm vụ tái sanh, chỉ có một tâm tái tục trong đời sống. Không có bản ngã luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác; chỉ có Danh sắc sanh và diệt. Kiếp sống hiện tại thì khác biệt với kiếp sống quá khứ nhưng nó liên tục cho đến kiếp sống hiện tại được kiếp sống quá khứ làm duyên. Vì tâm tái tục nối tiếp tâm tử của kiếp sống quá khứ, những khuynh hướng ngủ ngầm được tích lũy trong kiếp quá khứ tiếp diễn với tâm tái tục. Như vậy, người ta có những sở thích trong kiếp sống hiện tại là do nhân duyên trong quá khứ.

Tâm tái tục là kết quả của hành động thiện hoặc hành động bất thiện đã làm trong quá khứ. Cảnh mà tâm tái tục biết, như chúng ta hiểu, thì giống như cảnh tâm bất thiện hoặc tâm thiện quá khứ biết mà nó phát sanh trước tâm tử của kiếp sống quá khứ. Thanh tịnh đạo(XVII, 164-168) giải thích bằng cách so sánh rằng mặc dù kiếp hiện tại khác với kiếp quá khứ nhưng nó có sự liên tục. Chúng sanh được tái sanh thì không giống như chúng sanh trong kiếp quá khứ, nhưng nó được trợ duyên do kiếp quá khứ. Nó "không tuyệt đối giống nhau mà cũng không tuyệt đối khác nhau", như Thanh tịnh đạogiải thích. Chúng ta xem phần tâm tái tục:

Có thể mượn hình ảnh tiếng vang,
Ðể ví dụ cho sự tương tục,
Tiếp diễn nhau, nên không thể nói,
Là tương đồng hay dị biệt.

Và ở đây, để minh họa thức này thì giống như tiếng vang, ánh sáng, dấu in, bóng trong gương, nó không đến đây từ sự hiện quá khứ, nó phát sanh do nhân duyên thuộc về sự hiện hữu quá khứ. Vì tiếng vang, ánh sáng, dấu ấn, hình bóng, có âm thanh... làm nhân cho chúng và chúng hiện hữu không đi đâu cả, như vậy thức này cũng như thế.

Và với dòng tương tục thì nó không có tương đồng hay dị biệt .Vì nếu nó hoàn toàn giống nhau trong dòng tương tục thì sẽ không có vấn đề sữa đông. Và như vậy nếu nó hoàn toàn khác biệt nhau, sữa đông sẽ không chuyển hóa từ sữa. Và như vậy đối với pháp duyên sinh ... Do vậy, ở đây không nên nói chúng không hoàn toàn giống nhau hoặc hoàn toàn khác nhau.

Nếu người ta không hiểu rằng tái sanh là kết quả của nghiệp thì họ hoan hỷ trong việc tái sanh và chừng nào còn nghiệp thì chúng sanh còn sanh tử luân hồi. Vì vô minh người ta không thấy nguy hiểm của sự tái sanh. Hiện nay chúng ta đang sống trong cõi nhân loại nhưng cho đến khi nào chúng ta chưa đạt được một trong bốn tầng thánh thì chúng ta không dám bảo đảm rằng sẽ không sa đọa một trong bốn đường ác đạo. Tất cả chúng ta đã tạo vừa nghiệp bất thiện lẫn nghiệp thiện trong những kiếp khác nhau. Có ai biết những hành động nào sẽ phát sanh tâm tái tục của kiếp sống tương lai, cho dù chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện những hành động thiện? Một số người nghĩ rằng tái sanh trên cõi trời thì hưởng thụ nhiều hoan lạc, nhưng họ không hiểu kiếp sống trên cõi trời thì không trường tồn, sau khi hết tuổi trời, thì một ác nghiệp mà họ đã tạo trong quá khứ có thể tái sanh trong khổ cảnh.

Chúng ta xem trong 'Kinh Hiền ngu (Trung bộ kinh tập III, 129 ) khi đức Phật ngự trong vườn Jeta, tịnh xá của ông Cấp Cô Ðộc, ngài dạy cho các thầy Tỳ khưu về sự đau khổ trong địa ngục và sự đau khổ của bàng sanh. Ðức Phật dạy:

"Nầy chư Tỳ khưu, trong nhiều pháp môn, Như Lai tuyên thuyết về bàng sanh, nhưng khó giải thích cho đầy đủ, này chư Tỳ khưu vì có quá nhiều sự đau khổ của loài bàng sanh.

Này chư Tỳ khưu, giống như một người ném một khúc cây có một cái lỗ xuống biển. Gió tứ phương thổi khúc cây trôi dạt tứ phía. Có một con rùa mù một trăm năm nổi trên mặt biển một lần. Này các thầy Tỳ khưu, các thầy nghĩ gì? Con rùa mù đó có thể chui cổ của nó vào trong lỗ hỏng của khúc cây được không?"

"Nếu có, bạch Thế Tôn, chỉ một lần trong thời gian rất dài."

"Dù sớm hay muộn, này chư Tỳ khưu, con rùa mù đó có thể chui vào lỗ cây; Như Lai nói rằng, này chư Tỳ khưu, còn khó hơn điều đó nữa, người ngu mà sanh vào bốn đường ác đạo thì khó sanh làm người. Này chư Tỳ khưu, đó là nguyên nhân gì? Vì ở đó họ không hành theo pháp, tâm không an tịnh, không làm điều thiện, không làm phước. Này chư Tỳ khưu, vì ở đó chúng cấu xé lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Này chư Tỳ khưu, đôi khi một lần trong thời gian rất lâu, nếu người ngu được tái sanh làm người, họ sanh trong gia đình thấp hèn: gia đình làm nghề thợ săn, làm nghề đan tre, làm nghề đóng xe, làm nghề đổ phân, trong một gia đình nghèo khó như vậy, thì những nhu cầu vật chất hằng ngày rất nghèo túng. Xa hơn nữa, họ bất hạnh, xấu xí, khó nhìn, lùn thấp, bịnh hoạn, mù lòa hay tật nguyền; họ sẽ thiếu thốn thức ăn, thức uống, quần áo, xe cộ, tràng hoa, hương thơm, giường nằm, chỗ ở và ánh sáng; họ sẽ hành thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh. Bởi vì thân khẩu ý bất tịnh như vậy, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa xứ, địa ngục...

...này chư Tỳ khưu, đây là đọa xứ hoàn toàn viên mãn của người ngu..."

Ðức Phật dạy sự nguy hiểm của tái sanh theo nhiều cách khác nhau. Ngài dạy rằng sanh là khổ; sau cái sanh là già bịnh và chết. Ngài chỉ cho thấy thân thì bất tịnh và ngài cũng nhắc nhở mọi người rằng, ngay thân này thì cũng vô thường, khổ não và vô ngã. Nếu chúng ta cứ tiếp tục chấp thân tâm của mình là bản ngã thì không thể nào thoát khỏi sanh tử luân hồi.

Chúng ta xem Tương ưng bộ kinh (II, phẩm Nidàna, chương XV, Tương ưng Vô thủy, 10, người) khi Ðức Phật ngự ở Rajagaha, trên núi Linh Thứu, ngài dạy cho chư Tỳ khưu:

Này chư Tỳ khưu, vô thủy là luân hồi. Khởi điểm thì không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi của chúng sanh, do vô minh và tham ái trói buộc...

Này chư Tỳ khưu, xương của một người trong vô lượng kiếp có thể là một đồi xương, một chồng xương, một đống xương lớn như núi Vepulla, nếu có người thu gom tất cả những xương này và gìn giữ không cho bị hư hoại.

Ðiều này là thế nào? này các thầy Tỳ khưu, vô thủy là luân hồi. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của chúng sanh, do vô minh và tham ái trói buộc...

Ðức Thế Tôn dạy như vậy. Sau đó ngài dạy thêm:

Như xương người chất thành đống
Sống trong vô số lượng kiếp
Có thể cao bằng núi lớn
Bậc đạo sư dạy như thế.
Nó cao lớn như núi Vipula
Phía bắc của núi Linh Thứu
Núi của thành phố xứ Magadha.
Khi người đạt được tuệ quán
Sẽ thấy được bốn thánh đế
Khổ và nguyên nhân của khổ
Níp bàn là con đường hạnh phúc
Con đường thánh đạo tám ngành
Dẫn đến chấm dứt khổ đau.
Vị ấy có thể luân hồi
Không quá bảy kiếp làm người
Sẽ đoạn trừ mọi đau khổ
Và tất cả mười Kiết sử
.

Thật là may mắn được sanh làm người, nơi mà chúng ta có thể tu tập Thiền quán. Khi đạt được bậc thánh Tu đà huờn, chúng ta thực chứng được Tứ thánh đế. Do đó chúng ta không còn tái sanh nhiều hơn bảy lần và chúng ta tin chắc rằng sẽ không còn sanh tử luân hồi nữa.

CÂU HỎI:

1/- Tâm có bao nhiêu chức năng?
2/- Tâm có bốn loại: bất thiện, thiện, quả và tố. Tâm tái tục thuộc loại nào?
3/- Có phải tái sanh làm người thì luôn luôn là kết quả của nghiệp thiện?
4/- Khi nào kiếp sống của con người bắt đầu?
5/- Tại sao sanh là khổ?

Chú thích:

[1] Có những cõi khác nhau mà con người tái sanh và không tái sanh trong tất cả các cõi có cả danh lẫn sắc. Trong vài cõi chỉ có danh và trong một cõi chỉ có sắc.

[2] Patisandhi: nối lại, nó nối kiếp sống quá khứ với kiếp sống hiện tại. Nó thường được dịch là thức tái sanh, nhưng vì không có con người tái sanh, cho nên thức tái sanh có lẽ thì đúng hơn

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2021(Xem: 4304)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 5233)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 22269)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 15101)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9459)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 25125)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13878)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 11223)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 12624)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 14050)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]