Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phép An Thân

27/05/202407:29(Xem: 1147)
Phép An Thân
phat thanh dao


Phép An Thân
Lê Huy Trứ


Nhân sinh tham ái,
Dong ruổi mong cầu.
Nghiệp nơi tâm thức,
Luân hồi khổ đau.
(Lê Huy Trứ)




Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.

Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.”

Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.]

Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ.

Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.

Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu của nhục thể mới là Khổ. Khổ dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức, xuất phát từ Ngũ Uẩn, chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại của vũ trụ.

Như thế, tất cả những điều an lạc đang có cũng là khổ vì chúng cũng sẽ ra đi.

Khổ xuất phát từ chấp Ái (sa. tṛṣṇā) mà con đường thoát khổ là Bát Chính Đạo.

Tất cả những phân tích rất chi tiết, đầy triết lý cao siêu, và thể theo phương thức khoa học bởi Phật Giáo qua một kiếp nhân sinh khổ ở trên chỉ cần tóm tắc trong tám chữ, nguyên nhân chính yếu, “cầu không được khổ; cầu được cũng khổ.”


Thoạt sinh ra, thì đà khóc chóe,

Đời có vui sao chẳng cười khì?

(Nguyễn Công Trứ)

*

Trắng răng đến kẻ bạc đầu,

Đều mang tiếng khóc ban đầu mà ra.

(Ôn Như Hầu)

Có nhiều người chỉ mong cầu được yên thân mà sống qua ngày chứ không dám vọng cầu nhưng rồi những trở ngại, cái khó, cái khổ đau vẫn ùn ùn đeo đẳng lấy họ. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Theo Phật Giáo, cầu an cũng là vọng cầu, không cầu cũng là cầu, khác xa với vô cầu.



Ngạn ngữ có câu: Ghét của nào trời trao của nấy.

Cầu cái mình thích thì không dễ có nhưng cái ghét dù không cầu nó cũng lăn xả vào thân. Chưa thấy ai giải thích ổn thỏa những khổ nạn nầy. Chúng ta thường được khuyên nhủ: Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thay vì tàn nhẫn nói thẳng: ráng mà chịu, chấp nhận trở ngại rồi đời sẽ qua, không qua thì chết phức đi cho hết khổ.

Bill Gates thành thật khuyên những kẻ không giàu có thành công như ông ta: Đời bất công; phải ráng quen mà sống với nó.

"Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó."

Lời khuyên thông thường mà chúng ta thường nghe: Chúng ta nên nhìn xuống để cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao nhiêu người khác không bằng mình.

Lúc đó, chúng ta sẽ phát tâm từ bi bố thí, cứu người, giúp đời, tạo phước báu.

Vì nếu chúng ta nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc.

Nguyễn Công Trứ tả về cái nhàn, “Tri túc tiện túc hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn hà thời nhàn.”

Biết đủ là đủ, biết nhàn là nhàn.

Đối với người phàm tục thì nên nhớ ngạn ngữ có câu, “Biết đủ thường vui, hay nhịn tự an. Người biết đủ nằm dưới đất cũng như ở thiên đường. Người không biết đủ tuy ở chốn thiên đường mà như ở địa ngục.”

Đại khái, khi tâm cảm thấy đủ, lòng biết đủ thì chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc.

Tuy nhiên, nhưng danh ngôn đó đối với đa số chúng ta cũng như khi đang đau thì lương y cho thuốc an thần (pain medication) cho bớt đau, nhất là lúc họa vô đơn chí, chứ chả thật sự cứu giúp được gì được cho bệnh nhân trong cơn ngặt nghèo, nguy nan, và khốn cùng dồn dập.

Ai cũng nói được, nhất là để tạm khuyên nạn nhân đang đau khổ mà chính mình cũng chả làm gì được cho họ.

Lời nói không mất tiền mua nhưng nó chỉ là ‘cảm nhận’ rất tâm lý.

Chưa có ai khuyên: Thử cầu khó khăn, cầu trở ngại xem.

Có thể cũng không được?

Mong cầu mau chết, cầu khổ đau, cầu nghèo nàn cũng không dễ gì mà được. Số chưa chết, nghiệp chưa tận thì dù muốn chết cũng không chết được; đang an tâm tự tại dù cầu khổ, khổ cũng không đến liền; đang giàu có dù có cầu nghèo cũng không một sớm một chiều mà nghèo mạt rệp được.

Cho nên, đôi khi thất vọng vì cầu bất đắc cũng không đến nổi quá tệ như ta tưởng.

Can đảm và dũng cảm hơn, nếu cầu trở ngại không được thì đi tìm kiếm nó trước để mà đối phó thay vì chờ nó đến với mình như Lý Tiểu Long từng nói ... trên lý thuyết.

Đây có thể là một phương thức hữu hiệu để ngăn ngừa bệnh khổ đau?

Nhưng có mấy ai muốn tập sống khắc khổ, phòng bệnh khổ đau, bằng cách đi tìm trở ngại, xui xẻo, khốn nạn bao giờ?

Trong bài thơ Vịnh Cây Thông, Nguyễn Công Trứ đã từng đắng cay với cuộc sống nghèo khổ, thăng trầm hoạn lộ nên than,

“Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo.”

Nếu chán làm người, mong cầu kiếp sau được làm cây thông thì phải gieo nhân ‘quả thông thiện hay ác’ gì để được gặt quả làm cây thông? Mà trước khi được làm cây thông thì phải cầu chết trước đã.

Uy Viễn Tướng Công còn nói: Không công danh thà mục nát với cỏ cây.

Thử thực tập thiền định về cái chết của mình, thử tưởng tượng là mình đang chết hay nghĩ đến ngày mai mình sẽ chết, thời gian còn lại, mình nên làm những điều gì trước khi chết – lo sợ khổ đau, cái gì mang theo, cái gì phải để lại?

Thử tập chết mổi ngày, chết trong lòng, mục nát ... một tí, để xem thử cái cầu bất đắc này khổ tới đâu, quan trọng tới cở nào?

Có thể đây là một đáp số tạm thời để giải quyết khổ đau ập đến bất ngờ mà ít ai đã thử nghiệm?

Làm chủ được ngoại cảnh rất khó, làm chủ chính mình còn khó hơn.

Cái khó ít còn đối phó không nổi thì mong gì đối phó nổi cái khó hơn?

Tuy nhiên, chúng ta không nên quá yếm thế, quá thất vọng mà ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần một cách vô ích.

Chúng ta phải có hy vọng để mà sống, quăng bỏ gánh lo để bớt khổ đau.

Sự lai tắc ứng, sự khứ tắc tĩnh.

(Việc tới thì ứng phó, việc đi thì điềm tĩnh.)

Trong Kinh Đạt Bát Niết Bàn, Đức Thế Tôn răn dạy, “Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật.”



Muốn mong cầu để đạt được tâm thân an lạc, điều tiên quyết là phải kiên tâm hành trì để có được tha lực thâm hậu, phải có ý thức quán chiếu rằng vạn vật lẫn Pháp tướng là do duyên giả, duyên hợp rồi duyên tan như điện, như ảnh. Còn dong ruổi mong cầu, còn bám víu vào ngũ dục, còn mong sở trụ vào vô thường của duyên giả thì càng trầm luân trong biển khổ đau.

Thân ngũ uẩn chỉ là phù vân tụ tán

Hợp rồi tan trong vũ trụ bao la

Sự diệt sinh, sinh diệt vô cùng

Nó hiện hữu với thời gian vô tận…

(Huyền Giác Thiền Sư)

Nên tịnh tâm để thấy rằng:



Tịnh tâm quán niệm kiếp vô thường

Thân người giả tạm ví hạt sương

Kiếp người chỉ sống trong hơi thở

Thức tỉnh tu tâm, khỏi đau thương…

Hay,

Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rồi

Sá chi suy thịnh việc đời

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

(Sư Vạn Hạnh)

Nên ‘tri kỷ, tri bĩ’ (biết đủ là đủ) để được thân tâm an lạc.

“Bước đi giữa chốn hồng trần

Tiền tài, danh vọng phù vân ở đời

Ví như sóng biển ngoài khơi

Hôn vào bãi cát, hợp rồi lại tan

Bao năm gói mỏi lang thang

Nay dừng chân nghỉ nhẹ nhàng an vui”.

Vậy thì,

Hãy lái thuyền “Từ” xa cõi mộng,

Quay về bến Giác để thong dong.

Quán pháp vô thường do duyên khởi,

Tài sắc đam mê, rối cả lòng.

(Trí Giải)



Cho nên,

Nhậm vận thịnh suy, bình tỉnh mà run.

Nếu quá tuyệt vọng khổ đau thì cứ nguyện cầu, cứ đọc kinh, đọc thần chú, cúng tế, bói toán, rồi thì cứ đấm ngực than trời trách đất cũng không sao miễn là những hành động này làm cho mình tạm an tâm để có hy vọng mà vươn lên may ra hết khổ?

Đây cũng là một phản ứng tự nhiên của con người, là bản năng sinh tồn để tự làm giảm đi áp lực tâm thần lẫn thể xác (stress relieved mechanism.)

Đôi khi dị đoan mê tín mà không hại mình, hại người lẫn hại vật chỉ tiền mất tật mang, hay phước thầy may chủ cũng không đến nổi quá tệ.

Đời khổ là cái chắc nhưng ‘đau’ là sự lựa chọn. (Suffering is certain but pain is optional.)

Đây là câu trả lời cuối cùng mà tôi trì được ý vì tìm đọc nơi không có chữ (vô tự) trong kinh điển Phật Giáo Đại Thừa: thiện ác, xấu tốt, trúng sai, sướng khổ, thương ghét chỉ là nhị nguyên, chỉ ứng dụng cho con người vô minh chứ nó không phải là phương trình khoa học của nhân quả (cause and effect.)

Những lý luận nhị nguyên này không ứng dụng cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Chỉ có con người suy luận nhị nguyên, đặt ra luật lệ thưởng phạt rồi thì áp dụng những dữ kiện sai lầm này vào công thức nhân quả cho nên khi giải, ra đáp số sai đưa đến kết quả trật. Vũ trụ, thiên nhiên tự nó không thiện không ác, không xấu không tốt, không trúng không sai, không sướng không khổ, không thương không ghét.

Vũ trụ và thiên nhiên (mother nature) không biết những điều nhị nguyên đó. Khi thiên tai, bệnh dịch ̣đến thì chúng sinh chết, không phải vì thiên nhiên vui buồn hay phẫn nộ, thưởng thiện hay phạt ác. Dù chúng sinh có chết hàng triệu hay chết hết, bị diệt chủng như khủng long, cũng không bận tâm thiên nhiên, nếu thiên nhiên có tâm.

Tuy nhiên, những dữ kiện nhân duyên có thể phỏng đoán và giải thích được khi nào thiên nhiên tới hỏi thăm sức khoẻ lẫn mạng sống của chúng ta bởi những phương tiện của khoa học hiện đại. Như đã nói ở trên, thiên nhiên và vũ trụ không biết may mắn, giàu nghèo, yếu khỏe, sướng khổ, ái ố, vô minh, ngu muội, thiện ác, trí tuệ, lẫn giác ngộ của con người là gì cho nên không thể cho con người những cái thứ rác rưới đó được.

Tuy luật nhân quả, lý nhân duyên là luật của vũ trụ nhưng thiện ác là luật phân biệt của con người. Vũ trụ không biết những điều luật mà con người tự đặt ra cho chính mình.

Cho nên, ‘gieo nhân gặt quả’ hay có thể là ‘gieo gió gặt bảo’ (theo nghĩa đen) nhưng không hẳn là ‘ác dã ác báo’ mà có thể ‘ác dã thiện báo’ hay cũng có thể ‘thiện dã ác báo.’

Tùy theo kết quả và nhân duyên mà con người gặt được dù muốn hay không muốn.

Vấn đề là làm sao mong cầu đúng cách?

Lục Tổ Huệ Năng đã nói: Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng.

Lục tổ Huệ Năng dạy thêm, "Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, tự không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tâm, mê thì làm chúng sinh còn giác tức là Phật."

Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Tâm của mình rất thanh tịnh, chẳng chút mong cầu, công đức phước báo này là không có hạn lượng.

Thế tại sao chúng ta ở trong đời sống thường ngày, vẫn có rất nhiều những chuyện bất như ý vậy?

Từ những sự thật này mà quan sát, thì chúng ta có thể tỉnh ngộ ra thôi, do thời gian tu tích công đức của chúng ta quá ngắn, còn thời gian tùy thuận theo phiền não tập khí quá dài.

Cũng theo Hòa Thượng Tịnh Không: Phải hiểu được cái đạo lý mong cầu, phải biết được cái phương pháp tìm cầu. Phải như lý như pháp mà cầu, thì sẽ cầu được.

Quan trọng nhất của cầu là phải dùng tâm (chân không hư vọng,) thành (một niệm không sanh) để quán thông không gian duy thứ.

Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho.

Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh. Cho nên, cầu may mắn được may mắn, cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu hạnh phúc được hạnh phúc, cầu thông minh được thông minh, cầu trường thọ được trường thọ nhưng tất cả điều mong ước nầy chẳng qua chỉ là ảo tưởng vô thường từ ngũ uẩn mà thành vật chất, và tâm linh.

Kinh văn có viết: Nhược bất phản cung nội tỉnh, nhi đồ hướng ngoại trì cầu, tắc cầu chi hữu đạo, nhi đắc chi hữu mệnh hĩ, nội ngoại song thất, cố vô ích.

Nếu không hướng nội phản tỉnh mà chỉ biết hướng ngoại tìm cầu, thì cách cầu như vậy chỉ đạt được những cái trong số mệnh vốn có mà thôi, trong ngoài đều mất, cho nên vô ích vậy.

Trong kinh điển Đại Thừa cũng đã có nói như trên: cầu gì được nấy là ý như vậy chứ không phải chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ vọng ngôn, nói láo lừa bịp để dụ chúng ta theo đạo Phật.

Tuy nhiên, tham cầu, vọng cầu, chạy theo vật chất hiện hữu thì càng thất vọng, càng đau khổ vì cầu bất đắc làm chúng ta càng ngu muội, càng mê tín dị đoan, lạy lục van xin, kém trí tuệ, và mất nhân cách.

“The more we value things, the less we value ourselves.” Bruce Lee

“Đừng mong cầu một cuộc sống dễ dàng, hãy mong cầu có sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.” Lý Tiểu Long

“Do not pray for an easy life, pray for the strength to endure a difficult one.” Bruce Lee

Sức mạnh ở đây không hẳn chỉ là những sức mạnh vật lý, sức mạnh thể chất, nội lực, mà còn là sức mạnh về mặt tinh thần và tâm linh.

Nếu mong cầu đúng cách, vũ trụ sẽ cho ta tất cả những gì chúng ta mong muốn sau khi chúng ta quét sạch hết những cái quả rác rưới ở trên.



Trong bài thuyết giảng Upanishad:

Trong tĩnh lặng, hãy cầu khẩn Nó,

Nó là tất cả, suối nguồn xuất phát,

Nó là tất cả, nơi chốn trở về,

Nó là tất cả, trong đó ta thở.

*

Cầu chư kỷ, bất cầu chư nhân,

Cầu nội, bất cầu ngoại.

(Cầu ở mình, chớ cầu ở người;

Tìm ở trong, chớ tìm ở ngoài.)

Bên trong, niệm niệm phải tỏ ngộ, phải sáng suốt, phải hướng về Tâm Bồ Đề. Niệm niệm không xa rời tự tâm, niệm niệm đều thể hội nguồn tâm của mình, đều biết rõ bản thể của tự tâm; và tuyệt nhiên không truy cầu, tìm kiếm bên ngoài.

Những dẫn chứng kể trên, nhắc nhở chúng ta về tha lực của số mệnh khác với tự lực của tâm tánh.

Các cao nhân, và kinh điển cũng còn đề cập đến phương pháp cải tạo nghiệp quả (vận mệnh.) Trong đó, chúng ta nhất định phải biết tập tục, lầm lẫn của bản thân, chân thật phản tỉnh, tìm cho ra căn nguyên của chúng để xoay chuyển thế cơ, và tạo nên thời thế cho mình, cho người.

Bởi vì, đa số con người suốt đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.

Mà Tâm phan duyên là tên lừa đảo, bịp bợm lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng Tâm địa gian trá lại gạt bạn, và làm cho bạn vô minh, chấp ngã suốt đời.



Lão Tử nói rằng:

Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;

Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?

Dịch là:

Ta có họa lớn vì có thân này,

Thân ta chẳng có thì họa sao còn?

Ta có đau khổ vì cứ khư khư chấp có cái tấm nhục thân ngũ uẩn này. Không có cái thân vô thường, cái ngã vô minh, cái lòng tham sân si này thì họa khổ đau sở trụ được ở đâu?

Trong Liên Hoa hóa sanh,

Sự đáo vô tâm giai khả lạc,

Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.

*

Chẳng bận tâm thì lòng an vui,

Người vô cầu là bật cao thượng.

Được như thế thì dù vô cầu cũng tự nhiên sẽ đạt được vô lượng công đức, thành quả rất lớn lao.

Tự tại giữa dòng khổ đau,

Ung dung trong vòng ràng buộc.

(Lê Huy Trứ)

Cho nên, chỉ cần tự giác thì tâm an. Tâm an thì thân an. Thân an thì tất cả thiên hạ chung quanh chúng ta cũng sẽ bình an.

Điều phục lấy Tâm được xem như là phương châm tu dưỡng, và là mục đích chủ yếu của Phật Giáo.

Tóm lại, bí quyết của phép an thân là bình tâm, khi tâm bình thì thế giới cũng bình theo.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 8045)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4435)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4552)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5216)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4778)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3645)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3653)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3656)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 17239)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
14/01/2011(Xem: 9747)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]