Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh). Người chuyển ngữ cố gắng truy tìm nguồn gốc chính xác của các câu trích dẫn từ kinh Dhammapada, thế nhưng đối với các câu trích dẫn từ các kinh khác trong Anguttara Nikaya thì việc truy tìm rất khó, bởi vì trong Anguttara Nikaya có đến hơn chín ngàn bài kinh. Dầu sao các câu trích dẫn thường không bắt buộc phải ghi chú chính xác nguồn gốc. Ngoài ra độc giả cũng có thể xem thêm các câu trích dẫn bằng tiếng Anh, chẳng hạn như trên trang mạng Wikiquote : https://en.wikiquote.org/wiki/Gautama_Buddha.
Câu 78
Không nên tìm kiến sự hoàn hảo trong thế giới đầy biến động này
mà chỉ nên phát động tình thương thật tròn đầy.
Câu 79
Hãy tỏa rộng tình thương vô tận của mình ra khắp hướng, trên đầu và cả dưới chân.
(Kinh Metta Sutta - Sutta Nipata)
Câu 80
Có những hôm chúng ta cảm thấy mình chẳng khác gì một kẻ xa lạ trong thế giới này.Thế nhưng nếu biết mở rộng con tim mình thì mình sẽ hiểu được chỗ đứng của mình không phải ở một nơi nào khác, mà là tại nơi này, trong thế giới này.
Câu 81
Nếu muốn mang lại hạnh phúc cho mình thì phải tự nhổ bỏ ra khỏi con người của mình
những mũi tên của sự ta thán, phiền trách và lo buồn.
Câu 82
Dưới bầu trời này không có bất cứ một thứ gì bền vững, cũng chẳng có bất cứ một thứ gì
trường tồn mãi mãi.
Câu 83
Giáo huấn chẳng khác gì một chiếc bè giúp mình sang sông, không nên bám víu vào nó.
Câu 84
Trong số toàn thể nhân loại chỉ có một ít người vượt được sang bờ bên kia, phần còn lại
hết chạy ngược lại chạy xuôi ở bờ bên này.
Câu 85
Những gì chúng ta vun trồng trong những lúc sáng suốt là sức mạnh dự trữ
phòng khi biến động.
Câu 86
Không sao tránh khỏi sự đổi thay và mất mát trong cuộc sống.
Tạo cho mình một nếp sống tự do và hạnh phúc là biện pháp vừa uyển chuyển lại vừa nhẹ nhàng, giúp mình sẵn sàng tiếp nhận sự đổi thay.
(sự tự do ở đây có nghĩa là sự dừng lại: dừng lại trước tham vọng, hận thù, thèm khát và bám víu. Sự dừng lại đó là cách tách mình ra khỏi sự lôi cuốn của thế giới, mang lại cho mình một sự giải thoát. Sự tự do đó, sự giải thoát đó hay sự dừng lại đó cũng chính là hạnh phúc, một thứ hạnh phúc thật sâu xa mà những người đang quay cuồng trong cơn lốc triền miên của cuộc sống không sao hiểu được).
Câu 87
Hãy hình dung tất cả chúng sinh trong vũ trụ đều đạt được giác ngộ, riêng mình thì không.
và hãy cứ tưởng tượng tất cả các chúng sinh đó đều là thầy mình, tận lực giúp đỡ mình
phát huy sự kiên nhẫn, trí tuệ và lòng từ bi vô biên.
(hình dung và tưởng tượng tất cả chúng sinh trong vũ trụ đều hướng vào mình và giúp đỡ mình, là cách tạo ra cho mình một sức mạnh vô biên, giúp mình thực hiện các ước vọng của mình. Câu này được trích từ "Quyển sách nhỏ về những Lời giảng dạy của Đức Phật" / Le petit Manuel du Bouddha - tr.90 / Buddha's Little Instruction Book, tác giả Jack Kornfield).
Câu 88
Tất cả chúng ta đều là những kẻ mù lòa, chỉ ít hay nhiều mà thôi, kẻ mù này dắt kẻ mù kia.
Thế nhưng tại sao kẻ mù này lại không thể dẫn dắt được kẻ mù lòa khác ?
Thế rồi vào một ngày nào đó, với vị thế của một kẻ mù lòa đích thật,
chúng ta bỗng khám phá ra một điều vô cùng kinh ngạc:
mình vẫn có thể tự bước đi một mình,
hướng dẫn bởi ánh sáng của ngọn đuốc nội tâm bên trong chính mình,
đồng thời cũng nhận thấy các vị thầy và cả những lời giáo huấn của họ,
chỉ vỏn vẹn là các điểm chuẩn và những tiếng động khe khẽ
vang lên từ thế giới bên ngoài.
Câu 89
Trí tuệ bị vẩn đục bởi vô mình sẽ không bao giờ phát triển được.
Câu 90
Không nên bước theo giáo kuấn của ta một cách mù quáng,
mà phải tự mình chứng nghiệm những lời giáo huấn ấy.
Câu 91
Có hai yếu tố trực tiếp dự phần vào sự hiểu biết (dưới hình thức trí tuệ) :
đó là thế giới nội tâm và sự tĩnh lặng thật im lìm.
Câu 92
Người vô minh (u mê) già đi như một con bò : thân thể ngày càng nặng,
ngược lại trí tuệ thì không.
(Kinh Dhammapada - câu 152).
Câu 93
Một ngày sống với sự sáng suốt và chú tâm,
vẫn hơn là sống suốt một thế kỷ trong tình trạng u mê (vô minh) và xao lãng.
(Kinh Dhammapada - câu 110)
Câu 94
Nếu bạn đốt một ngọn đuốc để soi đường cho kẻ khác, thì ngọn đuốc cũng sẽ tỏa sáng trên con đường mà chính bạn đang bước đi.
Câu 95
Hành động tốt là hành động không tạo ra một sự hối tiếc nào,
hơn nữa kết quả do nó mang lại sẽ là niềm hân hoan và sự trong sáng.
Câu 96
.
Một người tạo được những điều tốt lành
sẽ xóa được những điều xấu mà mình vi phạm.
Người ấy sẽ tỏa sáng cả địa cầu,
tương tự như mặt trăng ló ra khỏi những đám mây mù.
(Kinh Dhammapada - câu 173).
Câu 97
Bàn tay không xây xát sẽ chẳng hề hấn gì khi cầm phải chất độc.
Độc tố không gây tác hại cho một bàn tay lành lặn.
Cũng vậy, sự xấu xa không thể bám vào một người không gây ra những điều tai ác.
Câu 98
Không nên nghĩ rằng làm một điều thiện nhỏ bé sẽ chẳng lợi ích gì.
Nước dù chỉ là từng giọt một thế nhưng vẫn có thể làm đầy được chiếc hũ.
Điều thiện dù là từng tí một thế nhưng sẽ ngập tràn tâm hồn của kẻ hiền nhân.
Câu 99
Tinh khiết hay ô nhiễm là chuyện cá nhân,
không có bất cứ ai có thể tinh khiết hóa kẻ khác được.
Câu 100
Quả hết sức khó khắc phục sự kiêu hãnh khi nó vẫn không ngừng thốt lên "cái tôi".
Câu 101
Sự thèm muốn mang lại lo buồn và sợ hãi.
(Kinh Dhammapada - câu 216)
Câu 102
Một nắm bụi ném ngược chiều gió sẽ hắt vào người ném.
Những điều tai ác sẽ quay ngược lại với kẻ gây ra tổn thương cho người vô tội.
(Kinh Dhammapada - câu 125).
Câu 103
Kẻ độc ác vẫn có thể thụ hưởng hạnh phúc,
cho đến khi nào những điều độc ác do mình gây ra chưa chín mùi.
Khi chúng chín mùi thì kẻ độc ác không sao tránh khỏi những điều bất hạnh.
(Kinh Dhammapada - câu 119)
Câu 104
Hãy làm việc thiện với tất cả sự hăng say!
Đấy là cách gạt bỏ những ý nghĩ xấu xa.
Ngược lại nếu làm việc thiện một cách hờ hững,
thì có nghĩa là tâm thức đồng lõa với sự xấu xa.
(Kinh Dhammapada - câu 116)
Câu 105
Một người đi buôn chuyên chở những vật quý gíá nhưng thiếu người hộ tống,
thì nên tránh các con đường nguy hiểm.
Cũng vậy, những ai muốn bảo vệ sự sống của mình,
thì phải tránh các thứ độc tố và cả những hảnh động xấu xa.
(Kinh Dhammapada - câu 123)
Câu 106
Thế giới phát sinh từ dục vọng (desire / thèm khát, ham muốn).
Khống trị dục vọng là cách giải thoát mình ra khỏi thế giới
(thế giới được hình thành từ các sức mạnh bản năng: thèm khát được sinh tồn, thèm khát được truyền giống, thèm khát được khỏe mạnh và sống lâu. Các sức mạnh đó là động cơ tạo ra sự chuyển động của thế giới. Nói một cách khác thì đấy là cách mà chúng ta làm phát sinh ra thế giới xuyên qua các thứ dục vọng của chính mình. Chính chúng ta là tác giả của đời mình, là người tham gia vào sự sáng tạo ra thế giới. Do vậy không có ai có thể giải thoát chúng ta ra khỏi thế giới, ngoài chính mình).
Câu 107
Hai núi vàng cao ngất cũng không lấp đầy được cái hố thèm khát của một con người.
Câu 108
Những gì mình thích không tạo ra vấn đề gì cả, chỉ có sự bám víu vào các thứ ấy mới là nguyên nhân gây ra mọi thứ khó khăn.
Câu 109
Hầu hết mọi người đều quên mất là mình sẽ chết vào một ngày nào đó.
Những ai biết nhắc nhở mình về sự thật ấy thì sự đương đầu với cái chết sẽ nhẹ nhàng hơn.
(hiểu được sự phù du của sự hiện hữu, thì cái chết của mình cũng chỉ là một sự tự nhiên. Sự ý thức đó sẽ giúp mình không sống trong lo sợ và sẽ không hoảng hốt khi cái chết gần kề)
Câu 110
Một người có một tâm thức không xao động và vẩn đục vì dục vọng,
một người vượt lên trên cái tốt lẫn cái xấu,
là một người thức tỉnh, không hề biết sợ hãi là gì
(Kinh Dhammapada - câu 39).
Câu 111
Với sức cố gắng, lòng hăng say, sự kỷ cương và chủ động,
kẻ hiền nhân sẽ tạo được cho mình một hòn đảo
mà không có bất cứ một ngọn sóng nào có thể làm cho nó bị tràn ngập.
(Kinh Dhammapada - câu 25).
Câu 112
Kẻ u mê (vô minh) và đần độn buông mình trong sự lơ là và xao lãng,
kẻ hiền nhân bảo vệ sự chú tâm và ý thức
như là một kho tàng vô giá.
(Kinh Dhammapada - câu 26).
Câu 113
Quả hết sức khó bước theo con đường khi đang trong cảnh giàu có.
(thông thường chúng ta cảm thấy niềm đau của chính mình trước khi ý thức được nỗi khổ đau của tất cả chúng sinh. Khi chưa cảm thấy niềm đau trong thâm tâm mình và cảnh trầm luân của thế giới thì quả hết sức khó bước theo con đường)
Câu 114
Thật hết sức khó cưỡng lại dục vọng và đương đầu với nó.
(đó cũng là sự thách đố sơ đẳng nhất đối với những người chập chững bước vào con đường, nhưng chưa loại bỏ được các sự thèm khát trong thế giới).
Câu 115
Quả khó tạo ra của cải và quyền lực một khi chưa bị các thứ ấy thống trị mình.
Câu 116
Có bốn trường hợp gây ra nghiệp xấu bằng ngôn từ :
đó là nói dối, ba hoa vô tích sự, nói lên những lời thô bạo và nói xấu kẻ khác.
Câu 117
Một người say mê thụ hưởng lạc thú và xem đấy là những đóa hoa thơm,
sẽ bị cái chết mang đi, tương tự như một cơn lũ cuốn trôi một ngôi làng ngủ say.
Câu 118
Nếu muốn mang lại hòa bình cho thế giới,
thì trước hết phải biết sống an lạc với chính mình.
Câu 119
Hạnh phúc thay cho những ai biết sống trong sự an bình,
tránh các hành động tai ác, sự kiêu hãnh và giả dối,
đồng thời phát huy được lòng từ bi, sự nhún nhường và tình thương yêu.
Câu 120
Tuyệt vời thay những khu rừng êm ả,
đám người nhộn nhịp nào có bao giờ biết đến!
Chỉ có những ai thoát khỏi đam mê,
mới tìm thấy được niềm vui trong những nơi đó.
Họ sẽ chẳng bao giờ còn bị thu hút
bởi các lạc thú của chốn phồn hoa.
(Kinh Dhammapada - câu 99).
Câu 121
Một người có tâm thức bình lặng, ngôn từ bình lặng, hành động bình lặng,
là một người đã đạt được một sự hiểu biết hoàn hảo,
tạo được một sự tự do hoàn hảo, một tâm thức cân bằng và phẳng lặng.
(Kinh Dhammapada - câu 96).
Câu 122
Những ai mong muốn mang lại sự an bình cho cuộc đời mình,
thì phải biết sống trong sự giản dị và niềm hân hoan trong lòng.
Họ là những người thanh thản, bình lặng, ít tham vọng,
không để mình bị lối cuốn bởi cảnh huyên náo
của những đám đông người.
(Kinh Metta Sutta, Sutta Nipata SN 1.8)
Câu 123
Chịu đựng sự lăng nhục nhưng không nổi giận là một điều rất khó.
Câu 124
Không có bất cứ ai trong thế giới có thể thoát khỏi sự chỉ trích.
(Kinh Dhammapada - câu 227)
Câu 125
Quả hết sức khó giữ được sự yên lặng trước những gì nên làm và không nên làm.
Câu 126
Một nghìn bài thuyết giảng tầm phào,
không bằng một lời hữu ích
mang lại sự lắng dịu trong lòng người nghe.
(Kinh Dhammapada - câu 100)
Câu 127
Gềnh đá không hề lung lay trước gió,
kẻ hiền nhân không hề xao động,
trước những lời chê trách và cả ngợi khen.
(Kinh Dhammapada - câu 81)
Câu 128
Dù đọc được và thốt lên cho người khác nghe bao nhiêu lời thánh thiện đi nữa,
thế nhưng tự mình không mang ra thực hành,
thì nào có ích lợi gì đâu?
Câu 129
Mỗi buổi sáng thức dậy, lại thêm một lần tái sinh,
vì thế những gì mình làm trong ngày hôm nay thật hết sức quan trọng.
(bởi vì mình sẽ thừa hưởng kết quả tạo ra bởi các hành động đó trong ngày hôm sau)
Câu 130
Tương tự như tiếng vọng âm vang từ tiếng nói,
bóng theo sát với hình,
hậu quả không bao giờ tách ra khỏi hành động.
Vì thế không nên phạm vào những điều tai ác và tội lỗi.
Câu 131
Những gì đang là mình vào ngày hôm nay
là kết quả do tư duy của mình tạo ra cho mình vào ngày hôm qua.
Cuộc sống của mình vào ngày mai
sẽ tùy thuộc vào tư duy của mình trong ngày hôm nay.
Đấy là cách mà tư duy của mình tác tạo ra sự sống của chính mình.
Câu 132
Những gì tai hại nhất mà một kẻ thù tạo ra cho kẻ thù của mình,
những gì hung dữ nhất do một kẻ hung dữ tạo ra cho một kẻ hung dữ,
cũng không sánh kịp với những gì gây ra bởi một tâm thức sai lầm.
(Chiến tranh phát sinh từ tâm thức : kẻ thù này gây chiến với kẻ thù kia, kẻ hung dữ này gây ra tác hại cho kẻ hung dữ khác. Khí giới, từ gậy gộc, dáo mác đến bom hạt nhân, nhất loạt đều phát sinh từ tâm thức, là các phương tiện cụ thể của tâm thức).
Câu 133
Không có bất cứ một thứ gì hoàn toàn biệt lập với nhau.
Tất cả đều liên hệ với tất cả.
Câu 134
Nếu tất cả mọi người trong gia đình biết thương yêu và dịu ngọt với nhau,
thì gian nhà sẽ trở thành một khu vườn đầy hoa.
Câu 135
Bất cứ ai nhận biết được tính độc nhất (unity) của sự sống
cũng sẽ nhận ra cái tôi của mình nơi tất cả chúng sinh,
và cũng sẽ nhận ra cả cái tôi của tất cả chúng sinh bên trong cái tôi của chính mình.
Điều đó sẽ giúp mình nhìn vào tất cả chúng sinh
không một chút phân biệt nào.
Câu 136
Con ong không hề gây ra thiệt hại cho một cánh hoa,
cho màu sắc và cả hương thơm của hoa,
mà chỉ mang theo với nó mật ngọt,
tương tự như một kẻ hiền nhân đi ngang qua một ngôi làng.
(Kinh Dhammapada - câu 49)
(đóng được tàu thuyền to lớn để khám phá cái đẹp của địa cầu và để đến gần với các dân tộc xa lạ, nhưng không xem đó là phương tiện lùa bắt nô lệ, cướp bóc, diệt chủng, chiếm hữu đất đai, cũng không áp đặt văn hóa, tín ngưỡng của mình cho các dân tộc khác. Đấy là thái độ của những kẻ hiền nhân).
Câu 137
"Ước mong sao thực hiện được sự kiên nhẫn" là lời nguyện cầu to lớn nhất.
Câu 138
Không có một thứ ánh sáng nào rạng ngời bằng ánh sáng của trí tuệ.
Câu 139
Một người bình lặng, không hề biết hận thù và sợ hãi,
quả xứng đáng được gọi là một kẻ hiền nhân.
Câu 140
Chính mình phải tự phát huy sự cố gắng,
các vị hiền nhân trong quá khứ chỉ đơn giản
trỏ cho mình trông thấy con đường mà thôi.
(Kinh Dhammapada - câu 276)
Câu 141
Không có một nơi nào thiêng liêng,
cũng không có một con người thiêng liêng nào cả,
mà chỉ có những khoảnh khắc thiêng liêng,
những khoảnh khắc của trí tuệ.
Câu 142
Một người sống với trí tuệ
sẽ không biết sợ hãi là gì,
kể cả cái chết
(sống với tri tuệ có nghĩa là sống với sự hiểu biết về bản chất của thế giới, ý thức được sự vận hành của thế giới và hòa nhập với thế giới).
Câu 143
Kẻ đần độn (vô minh) không có một chút ý thức nào về các hành động của mình,
thế nhưng các hành động đó vẫn cứ tiếp tục đốt cháy kẻ ấy,
tương tự như một đốm than hồng âm ỉ dưới lớp tro đen.
(Kinh Dammapada - câu 136).
Câu 144
Một kẻ vô ý thức nhận thấy được sự dại dột của mình sẻ là một kẻ hiền nhân,
Một kẻ vô ý thức nghĩ rằng mình là một kẻ hiền nhân thì quả đúng là một tên điên rồ.
(Kinh Dhammapada - câu 63)
Câu 145
Không có ai từ bên ngoài có thể kiểm soát (chỉ huy, sai khiến) được nội tâm mình.
Hiểu được điều đó chính là sự giải thoát.
(mũi súng chỉ cướp được của cải, nhưng không cướp được sự tự do bên trong nội tâm của kẻ khác).
Câu 146
Trong thế giới này không có nhiều sự thật khác biệt nhau.
Sự thật là duy nhất, luôn là một,
xuyên qua không gian và cả thời gian.
(sự thật đúng nghĩa của nó không tùy thuộc vào lịch sử, văn hóa hay xã hội, cũng không phải là gia tài của một quốc gia hay một dân tộc nào cả. Sự thật chỉ có thể tìm thấy bên trong tâm thức, vì vậy mỗi người phải tự mình tìm thấy sự thật đó bên trong chính mình).
Câu 147
Hãy nhìn vào giáo huấn của người thầy, không nên nhìn vào cá tính của vị ấy.
Hãy nhìn vào ý nghĩa, không nên nhìn vào chữ.
Hãy tìm hiểu chủ đích tối thượng, không nên tìm hiểu ý nghĩa tương đối.
Hãy tin vào tâm thức trí tuệ của mình, không nên tin vào sự xét đoán của tâm thức bình dị.
(Kinh Kamala Sutta, AN 3.65).
Câu 148
Những người xem sai lầm là sự thật, xem sự thật là sai lầm,
những người được nuôi dưỡng và lớn lên
trong cánh đồng cỏ của những thứ tư duy sai lầm,
là những người chẳng bao giờ trông thấy được hiện thực.
Những người xem sự thật là sự thật, xem sự sai lầm là sai lầm,
là những người được nuôi dưỡng và lớn lên,
trong một cánh đồng cỏ của các tư duy đúng đắn,
Họ là những người sẽ đạt được hiện thực.
(Kinh Dhammapada - câu 11)
Câu 149
Hãy sống thật trọn vẹn qua từng hành động một,
và hãy xem đó như là hành động cuối cùng trong cuộc đời mình.
Câu 150
Hãy sống với giây phút mà mình đang sống,
và hãy xem đó là giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời mình.
(Xem giây phút mà mình đang sống là giây phút mà mình thực hiện được những điều đẹp nhất trong cuộc đời mình).
Câu 151
Sống một trăm năm phóng đãng, thiếu đạo đức (buông thả, vô trách nhiệm),
không bằng sống một ngày trong một kiếp sống biết hành thiền
và thực thi những điều đạo hạnh.
Sống một trăm năm trong sự u mê (vô minh) và phóng đãng,
không bằng sống một ngày trong một kiếp sống biết chăm lo học hỏi và hành thiền.
Sống một trăm năm trong sự lơ là (chểnh mảng, hoang mang, lười biếng), thiếu nghị lực,
không bằng sống một ngày trong một kiếp sống cương quyết và nghi lực
(Kinh Dhammapada - các câu 110, 111, 112).
Câu 152
Sức mạnh là khí giới của những kẻ sai lầm.
Câu 153
Chỉ nên làm những gì không khiến mình hối hận.
Câu 154
Thân xác vô cùng quý báu, bởi vì đấy là phương tiện chuyển tải sự giác ngộ của mình.
(thân xác là phương tiện thật cần thiết giúp mình tu tập, vì vậy phải luôn giữ gìn nó thật tinh khiết, từ miếng ăn cho đến nếp sống. Thế nhưng thân xác không phải là một thứ sở hữu trường tồn và quý giá để bảo vệ nó bằng mọi cách, hay tô điểm nó để thu hút kẻ khác),
Câu 155
Người chăn bò dùng chiếc gậy để điều khiển đàn bò, già nua và cái chết là chiếc gậy
điều khiển những đoàn người đang sống.
(Kinh Dhammapada - câu 135).
Câu 156
Nhà cửa mình, con cái mình, kể cả thân xác mình, không phải là của mình.
Tất cả chỉ là của mình trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi.
Tuy thế chúng ta cũng nên chăm lo cho các thứ ấy thật thận trọng.
(đối với của cải không phung phí, cũng không ôm chặt, mà phải biết sử dụng nó để mang lại lợi ích cho mình và kẻ khác; đối với con cái thì phải răn dạy và bảo vệ chúng, thế nhưng phải biết tôn trọng nhân phẩm và sự tự do của chúng; đối với thân xác phải chăm lo sức khỏe và giữ gìn sự tinh khiết cho nó, thế nhưng không phải vì thế mà bám víu vào nó tmột cách bệnh hoạn, và cũng nên hiểu rằng thân xác chỉ là tạm bợ mà thôi).
Câu 157
Hành động của tôi là của cải của riêng tôi;
Hành động của tôi là gia tài mà tôi thừa hưởng;
Hành động của tôi là chiếc tử cung cưu mang tôi;
Hành động của tôi nhào nặn ra bản tính của tôi.
Hành động của tôi cũng là nơi an trú cho chính tôi.
(vì thế cũng nên tạo cho mình một nơi an trú an vui và tinh khiết).
Từ Kinh Phật Sơ Thời Đến Thiền Đốn Ngộ
Giới Thiệu Tác Phẩm “Thiền Tông Qua Bờ Kia” Của Cư Sĩ Nguyên Giác--Trong tác phẩm mới xuất bản “Thiền Tông Qua Bờ Kia” tác giả Cư Sĩ Nguyên Giác kể chuyện buổi đầu ông học Thiền với Hòa Thượng Bổn Sư Thích Tịch Chiếu ở Chùa Tây Tạng tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam như sau:
“Tôi nhớ lại buổi đầu gặp Hòa Thượng Tịch Chiếu, hỏi Thầy rằng con nên tập Thiền thế nào, Thầy nói rằng, “Phải Thấy Tánh đã.” Lúc đó, Thầy bảo đứa em kế tôi phải niệm Phật sáng trưa chiều tối, và quay sang đứa em gái kế sau nữa của tôi, bảo nhỏ này là con hãy về đọc bài Bát Nhã Tâm Kinh tối ngày sáng đêm. Tôi hỏi, rồi con cần niệm hay đọc gì hay không, Thầy đáp, con không có một pháp nào hết.”[1]
Chris Impey là Phó Khoa Trưởng của Đại Học Khoa Học, và là một Giáo Sư Xuất Chúng của Khoa Thiên Văn Học thuộc Đại học Arizona (Hoa Kỳ). Công trình nghiên cứu của ông đặt trọng tâm vào việc phát triển và cung cấp năng lượng của những lỗ đen khổng lồ trong các thiên hà.Ông đã viết hai cuốn sách giáo khoa, một tiểu thuyết, tám cuốn sách khoa học phổ thông, và hơn 250 bài nghiên cứu và bài báo.Khiêm Tốn TrướcHư Không(Humble Before the Void ), một cuốn sách dựa trên những khóa hội thảo được mô tả trong bài báo này, do Templeton Press xuất bản năm 2014
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
* Trong vũ trụ có trùng trùng thế giới. Toàn Giác là bậc câu thông cùng vũ trụ, họ cùng một thể tánh với vũ trụ, thấu suốt quy luật vận hành của vũ trụ rồi “truyền thần” lại sự thấy biết đó. Để thấy rằng Đức Bổn sư không sáng tạo ra vũ trụ, không chế định ra luật nhân quả luân hồi, mà vũ trụ vốn sống động từ vô thỉ dù Phật có ra đời hay không.
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền.
Hai năm về trước, ngẫu nhiên đọc được bài diễn văn ‘Giá Trị của Khoa Học’ (The Value of Science) bởi Dr. Richard Feynman, Mùa Thu, 1955, (in Volume XIX, ENGINEERING AND SCIENCE, December 1955) rất nổi danh ở trên internet nhưng lúc đó tôi chưa đủ trình độ để hiểu nổi cái trí tuệ thậm thâm viên diệu của ông ta dù lúc đó tôi cảm thấy rất hấp dẫn.
Bài viết này được trình bày qua công trình nghiên cứu, suy luận, tham khảo, sáng tác và phóng dịch từ những nguồn gốc tài liệu giá trị bởi những khối óc vĩ đại của các khoa học gia Tây Phương cũng như của những cao tăng và những thiện tri thức, đã được tôi tư duy hóa, đồng cảm hóa, và Phật Giáo hóa để chứng minh vài công án nan giải của khoa học. Nó được xem như là một phương tiện trí tuệ của Phật Thừa để giải thích những gì khoa học hiện đại chưa thể vượt qua được.
Đa số chúng ta, ít ra đã có một lần, từng đọc qua lời tuyên bố nổi danh của nhà bác học Albert Einstein, tôi xin dịch lại cho sát ‘ý của Einstein từ Tây sang.’
“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạo và loại bỏ những giáo điều và thần học. Bao gồm cả thực tại và tâm linh, nó nên được đặt trên nền tảng của một tôn giáo trí tuệ, vượt trên tất cả những kinh nghiệm của hiện tại, tự tánh và Tâm Thức, đầy ý nghĩa ‘Đồng Nhất Thể.’ Phật Giáo đáp ứng được công án này.
“The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description.” Albert Einsteinle
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.