Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khổ

17/03/201815:48(Xem: 10595)
Khổ
hoa sen 3Khổ
Lê Huy Trứ
 
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau?
 
Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe.
 
Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen).  Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần.  Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. 
 
Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời.
 
Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn loạn trở thành bình tĩnh tỉnh mà run sợ” vì khi ta biết mình đang run rẩy và lo sợ cái quái gì đó thì mình sẽ “nhất tâm bất loạn sợ.”
 
Lão Tử nói rằng:
 
"Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;
Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?"
 
Tôi tái dịch theo ngôn ngữ Phật:
 
"Ngộ sở dĩ có họa lớn vì ngộ vô minh chấp có thân,
Nếu ngộ vô thân, vô ngã thì họa đâu còn chỗ để sở trụ?"
 
Chúng ta dù quyết tâm chí không chấp nhận khổ, không tin có khổ, không đầu hàng khổ.   Chúng ta tự lực đến đuối sức để “diệt khổ”,  rồi thì cầu xin với tha lực để mong được cứu khổ nhưng khổ vẫn hoàn khổ.
 
Chúng sinh lo âu, than vắn thở dài, nước mắt đầy vơi, chỉ cầu mong được sống an thân nhưng rồi thì họa vẫn cứ vô đơn chí, phúc vẫn bất trùng lai.
 
Khổ không ai diệt (eliminate) được chỉ có giảm khổ (mitigate).  Ngày nào còn nhân sinh là ngày đó còn khổ vì khổ và nhân sinh tuy hai mà một.
 
Câu hỏi cho chính mình là không phải “tại sao” nhưng mà “làm sao” nhưng khi ta biết “nhậm vận thịnh suy vô bố úy” rồi thì tất cả đều không là vấn đề của ta nữa mà là công án của thân tâm.
 
Vì khi mà “nhậm vận” và tịnh tâm rồi thì không còn có câu hỏi nữa.  Mà đã không có thắc mắc, không có câu hỏi thì làm gì có câu trả lời?
 
Đó là bí quyết của “nhậm vận vũ trụ vô thường, vô ngã úy”.
 
Đạo Đức Kinh khuyên:
 
Vinh hay nhục lo âu cũng rứa,
Ta lo âu vì có tấm thân.
Nhục vinh là mối bận tâm,
Lên voi xuống chó cũng ngần ấy lo.
Luôn sợ hãi là do thân thể,
Không thân này hồ dễ âu lo.
Xin đem thiên hạ hiến cho,
Ai vì thiên hạ, chẳng tơ tưởng mình.
 
Nhưng khi nhìn lại thì những cái sướng khổ đó rồi cũng qua đi theo dòng đời.  Thật là phép mầu, không hiểu sao, chúng ta vẫn còn sống, vẫn ngụp lặn trôi nổi theo dòng sông thời gian. Tưởng rằng đã buông xuôi chết đuối từ lâu vậy mà chúng ta vẫn còn sống nhăn răng vì chúng ta phải sống, chúng ta quyết tâm sống còn cho đến khi thuyền ra cữa tử hải rồi mới run vãi mật, són...trong quần.
 
Vậy mà khi bị trôi dạt ra khỏi sông dài, thấy được trời cao biển rộng, sóng cao thì nổi chí hồ hải vùng vẫy tự do quên mất lúc vô thường trong ao tù đau khổ lúc còn sống.  Rồi thì ôm bám vào cái biển bao la này tưởng là thường. 
 
Chấp tử là giải thoát, bịn rịn cho đến khi tái sinh, mới biết tử là đoạn.  Rồi khi tái sinh lại trở lại chấp sống, than khổ là thường nhưng vẫn quyết tâm tranh sống vì cứ tưởng đường về quê còn xa lắc lê thê. 
 
Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm đường.
 
(Vua Trần Thái Tông)
 
Con người như là con chó cố táp cái đuôi của chính nó mà không hiểu tại sao nó lại táp...gió.  Vì con người đang sống trong mộng mơ, cố bám víu vào thân tâm, vô thường tạm bợ của những sắc tướng.  Tưởng mộng là thực thay vì tiếu ngạo với mộng.  Đó chính là nguồn gốc của mọi sự khổ đau, phiền muộn.
 
Cung Oán Ngâm Khúc:
 
Mùi phú quí dử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh.
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không.
 
Phật Giáo phân tích: Ngoài Tam khổ, còn có Bát khổ.  Thực tế, nỗi khổ vô lượng vô biên, không thể đo lường được.
 
Bát khổ gồm: Sinh, lão, bịnh, tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ, Cầu bất đắc khổ.
 
Tám cái khổ này làm hại được tâm thân của con người vì con người đầy cố chấp, đủ thứ phân biệt, đủ thứ vọng tưởng, không chịu xả bỏ là do bị nhốt trong vòng Ngũ Uẩn/Ấm không giải thoát khỏi sinh tử được.
 
Ngũ Ấm (Ngũ Uẩn) tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chúng rất khó mà hàng phục. Ngũ Ấm này như lửa tam muội, thiêu đốt tâm can, thống khổ vô vàn.  Nếu có pháp An Tâm, pháp An Thân thì tám cái khổ này có thể tạm kềm chế.
 
"Lão Tăng tự hữu An thân pháp,
Bát Khổ giao tiên dã vô phòng."
 
Dịch là:
"Sư già vốn có phép An thân,
Tám khổ chằng chịt chẳng nhằm gì."
 
(Hòa Thượng Tuyên Hóa)
 
Chẳng nhằm nhò gì” là cái chìa khóa của vấn đề?
 
"Sư già vốn có phép An thân” nhưng đa số chúng ta “không vốn để trốn thân”.  Sư già an thân già nhưng không cứu được thất chúng của chính mình?
 
Đôi khi ngồi một mình nghĩ lại nước mắt tuôn đầm đề mà thương cho ôn mệ, cậu dì, chú bác, bà con, cha mẹ, các em, gia đình, lẫn thân tôi, và rồi thì cũng thương cho tất cả chúng sinh sống trong bể khổ. 
 
Mong tất cả chúng sinh không còn sanh ra trên cõi đời này lần nữa.  Không biết thể hiện tâm bồ tát mong độ tất cả chúng sinh như vậy có đồng nghĩa với nguyền rủa cho “chúng nó” chết tiệt, và tuyệt chủng hết không?
 
Nhưng nếu chết hết là giải thoát khỏi luân hồi khổ đau thì bần tăng cũng ngã Phật từ bi, cam tâm xắn tăng bào, đại khai sát giới một phen.
 
Tất cả Tội Nghiệt. Tội Nghiệp. Tâm Thiện. Hành Ác này một mình ta tình nguyện gánh chịu. 
 
Ta không gánh hết đại tội này thì ai gánh cho?
 
Nhưng mà nếu cầu khả đắc, chúng sinh tiêu tùng hết thì ta tái sống làm gì, vui buồn với ai?
 
Khổ đau của ta không phải từ người.  “Giết” người đi thì ta ở với ai?
 
Khi không còn một chúng sinh để độ nữa, thì không còn có sinh tử, luân hồi đau khổ nữa để cứu thì ta còn cần thành Phật không?
 
Suy đi nghĩ lại thì chả có gì để tội nghiệp, và để bi thương cả vì tất cả chúng ta chỉ là những kịch sĩ, đào thương, kép độc gặp gở bèo bọt, cá nước, keo sơn gắn bó trong những vở tuồng duyên nghiệp, quả báo tạm bợ, vô thường của khổ đau. 
 
Bởi cái mặt (diện mục) nó phản ảnh bản lai, hành vi của con người cho nên con người thường trông mặt người mà bắt đúng hình vong.  Trong hát bội có chữ “dặm mặt” sao cho đúng với cái “vai trò.”  Để khi bước ra sân khấu, khán giả thấy cái mặt liền nhận ra ngay cái vai trò hý trường mà mình đang trình diễn với bản lai là trung, nịnh, hiền, hay dữ…
 
Hòa Thượng Trúc Lâm với bài Mộng:
 
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng,
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng,
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng.
 
Tuy nhiên, ông bà cũng có dạy đừng có trông mặt mà bắt hình dong hay suy bụng ta ra bụng người.  Nhân chi sơ tính bổn thiện/ác chỉ vì nhân sinh diễn xuất quá xuất thần, như thiệt, đến quên mất cả cái bản lai diện mục gian ác/thiện của chính mình.
 
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bào ảnh,
Như sương, cũng như chớp,
Phải nên quán như thế.
 
(Kinh Kim Cang)
 


nang ne-17nang ne-15nang ne-14nang ne-13nang ne-12nang ne-11nang ne-10nang ne-9nang ne-8nang ne-7nang ne-6nang ne-5nang ne-4nang ne-3nang ne-2nang ne-1
Thôi thì có đau khổ tuyệt vọng chán đời thật thì cũng cố tình quán như thế.  Quán tưởng nó như vỡ tuồng mộng huyễn, bèo bọt như sương, như sấm chớp mau như vậy để mà nhắm mắt mò mẫm qua cầu khỉ, hay cầu tre lắc lẻo, và để khỏi bị lọt xuống mương còn tệ hơn là chết...thiệt.
 
Tóm lại, Phật Pháp là pháp môn “ngừa phòng bệnh khổ ” chứ không phải là chờ “bạo bệnh” khổ tới rồi mới nguyện sẽ ăn năn, sám hối, bắt đầu niệm Phật, ăn chay, cúng dường, bố thí, làm phước.   Đặt điều kiện với trời phật, NẾU được cứu hết khổ, độ được thân bệnh tử thì “sẽ” tu hành, bố thí NẾU được trời phật phù hộ cho giàu có, và tai qua nạn khỏi.
 
Ai trên đời này chưa nhiều lần đã, đang, và sẽ không cầu xin như vậy?
 
Thật ra đây là điều van xin,  tham cầu phổ thông bình thường.  Đa số chúng ta cũng cầu được mọi chuyện trên đời được đơn giản, thuận lợi, an thường như vậy thôi.
 
Nhưng, trên thực tế, đây là lý do của cầu bất khả đắc.  Vì trời phật, vũ trụ có thể không biết chữ Nếu, và cái âm không (tiêu cực, cực âm, negative.)
 
Tuy nhiên, cầu hay không cầu thì cũng “khổ qua” vì đau khổ không phải sở hữu của riêng ai?
 
Tâm vô cầu tự nhiên Có tới, rồi thì Có đi.  Tới hay không ta có cần cầu đâu mà mong chờ, lo sợ được hay không?
 
Tôi có bài kệ,
 
Được không lo sợ cũng vậy thôi,
Thân si ngã chấp tấm lòng động,
Chấp thường đau khổ tâm can rối,
Chìm nổi nỗi lòng có không lo?
Tâm bố úy vì thân sở trụ,
Vô ngã thân tâm ai sợ lo?
Tam bảo cúng dường tâm lòng hiến,
Bố thí thiên hạ, chẳng tơ tưởng mình.
 
(Lê Huy Trứ)
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 3027)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3128)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 14993)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
14/01/2011(Xem: 8513)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
13/01/2011(Xem: 3318)
Trong các lớp bậc trung học chúng ta cũng đã biết chút ít thế nào là tương tự. Hai bài toán có thể dùng cùng một phương cách để giải thì ta gọi đó là "quá trình tương tự hoá".
11/01/2011(Xem: 8542)
Lý Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
05/01/2011(Xem: 12794)
Triết thuyết Căn Bản của PG Đại Thừa
05/01/2011(Xem: 4021)
Tài liệu về Đại sư Khuông Việt quá ít ỏi , hầu như chỉ bao gồm trong chuyện kể về Ngài của Thiền Uyển tập anh , Cho đến nay những hiểu biết về Ngài chỉ căn cứ vào đó , chưa có những phát hiện gì mới ngoài những diễn dịch , phát triển suy đoán , lắm khi mang tính cường điệu . . Qua bài này như một góp ý nhò nhặt , người viết mong rằng những nhận định vế Đại sư lừng danh của nước Việt bớt đi những suy diễn chung chung , thiếu dẫn chứng, chỉ mang tính cường điệu mà thiếu tính khoa học ; đồng thời nhấn mạnh đến nhiệm vụ chung của nhà nghiên cứu là tìm thêm tài liệu , chứng cứ để củng cố những luận điểm nhằm vinh danh vị Tăng thống đầu tiên của nước ta .
05/01/2011(Xem: 3301)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để xếp loại và đánh giá các hành động. Đạo đức học nhằm nêu định cứu cánh của mọi hành động hợp lý mà con người cố vươn tới, tức mục đích, lý tưởng của cuộc đời và tìm các phương cách giúp con người tiến tới mục đích lý tưởng ấy.
05/01/2011(Xem: 32202)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567