Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những câu hỏi tế vi

21/01/201517:06(Xem: 9014)
Những câu hỏi tế vi

cau hoi

 


Nguyên văn emai của một cư sĩ:
Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi:
"Cái này có, cái kia có
Cái này sinh, cái kia sinh
Cái này không cái kia không
Cái này diệt cái kia diệt"
Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.  

Vì nhận thấy nó quan trọng như thế, nên con tò mò xem nguyên bản Pāḷi ghi như thế nào, xin trích: 

 Imasmiṃ sati idaṃ hoti; imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.

Khả năng Pāḷi của con giới hạn, nhưng con để ý các từ mà con biết:  "Sati" tức là "Niệm";   "hoti"  tức là "hiện hữu" --> tiếng Anh  tức là "being" cái mà Bùi Giáng và Heiddergger rất thường hay nói tới.

Như vậy, xét về nghĩa đen, câu đầu tiên con hiểu là:  "Do niệm cái này, mà cái kia có mặt (hiện hữu)"

Ờ đây, đang nói tới cái năng lực không thể nghĩ bàn của Tâm, tức là hễ Tâm nó niệm cái gì, thì tác dụng của sự Niệm đó, sẽ làm cho Pháp ấy có mặt trước khả năng nhận thức của Tâm.  Nói cách khác, do Niệm mà một Pháp trở thành Pháp Thực Tại Hiện Tiền cho Trí Tuệ Minh Sát làm việc.  Đó cũng là cách thực hành rốt ráo Thiền Tứ Niệm Xứ.

Câu hỏi của con là:  Vì sao "Sati""Hoti" là hai từ khác nhau mà chúng ta lại dịch sang tiếng Việt chỉ có một từ là "Có"?

Theo chỗ con thấy, dịch như vậy sẽ không làm sáng ý nghĩa thực hành "Tâm cùng Tu với Tuệ" như Phật dạy trong Kinh Đại  Bát Niết Bàn "Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa tới giải thoát hoàn toàn tất cả các lậu hoặc"?  Dịch là "Có" thì  "Vì cái này có nên cái kia có" khiến cho người đọc ngộ nhận là đang nói tới các Pháp Hữu Vi bên ngoài và sự vận hành của nó. Thì các Pháp tương sanh tương diệt, nên không có dính dáng chi tới mình cả.  Còn nếu hiểu là "Do niệm cái này mà cái kia có mặt" (ví dụ, do niệm hữu hoài cho nên tái sanh sẽ có mặt), lúc đó chúng sanh mới biết sợ mà tu. (tàm quý khởi lên, nâng đỡ thế gian). Sợ vì thấy khả năng vi diệu của Tâm và (tư niệm thực--> loại thức ăn thứ 4 trong 4 loại thức ăn).

Trả lời:

Nội dung email của cư sĩ tôi có thể tóm tắt thành 4 ý chính:

- Về “sati”  và “hoti” .

- Tâm cùng tu với tuệ

- Về pháp hữu vi

- Về tư niệm thực

Bây giờ ta đi từng câu một.

1- Về “sati”  và “hoti” .

Câu này khá phức tạp. Nó đòi hỏi trình độ học thuật, nhất là phân tích ngữ pháp Pāḷi. Do từ lâu khi đụng đến từ “sati” là người ta dịch là “niệm”, và ngay chữ niệm này người ta cũng hiểu năm bảy nghĩa khác nhau. Và từ “hoti” được dịch là là (being), là hiện hữu cũng là cách hiểu của nhiều người. Thật ra, những quyển tự điển Pāḷi-Anh thường chính xác hơn. Một từ Pāḷi người ta thường đưa ra nhiều nghĩa, tuỳ theo chỗ dùng, chức năng của nó đôi khi là động từ, đôi khi là danh từ - rồi họ còn dẫn nguồn tương thích.

Bây giờ, muốn hiểu cho thật chính xác, xin cư sĩ chịu khó đọc bài phân tích đúng “bài bản nhà trường” sau đây (đệ tử của tôi làm):

Imasmiṃ sati idaṃ hoti; imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.

(S 2.28)

“Khi điều này hiện hữu, điều kia hiện hữu; do sự sinh khởi của điều này, điều kia sinh khởi. Khi điều này diệt, điều kia diệt; do sự biết mất của điều này, điều kia biết  mất”.

Imasmiṃ sati idaṃ hoti

Theo các nhà ngữ pháp  Pāḷi imasmiṃ sati  được gọi là absolute clause [mệnh đề tuyệt đối]. Bởi vì nó hội đủ hai yếu tố: Có một participle (phân từ) “sati” và một chủ từ được chia ở locative (định sở cách) “imasmiṃ”. Mệnh đề tuyệt đối này diễn tả “khi hành động một xảy ra thì hành động hai xảy ra sau đó”. Như  vậy, câu Imasmiṃ sati idaṃ hoti”  có  thể được dịch “khi điều này hiện hữu/sinh khởi điều kia [cũng] hiện hữu”.

Note:

- Imasmiṃ [nt.loc. sg, of ima]  =  điều này

- Sati [prp. loc. sg . of santa (√as)] =  đang hiện hữu,  đang có, đang là (hiện tại phân từ “sati” phải ở cùng tánh và số với chủ từ của nó “imasmiṃ”

- Imasmiṃ  sati [Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] = điều này hiện hữu

- Idaṃ (nt.nom. sg. of ima) = điều này, điều kia

- Hoti (3rd, sg. of √hū) = có, là, hiện hữu

- Idaṃ hoti [Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] =  điều kia hiện hữu.

- Sati  hoti [Definitive Relation = quan hệ xác định]

[nt= neutral (trung tánh); prp = present participle (hiện tại phân từ); loc = locative (định sở cách); sg = singular (số ít); nom = nominative (chủ cách)].

imass’ uppādā idaṃ uppajjati.

“Bởi vì sự sinh khởi của điều này, điều kia sinh khởi”  hay “điều này sinh khởi do sự sinh khởi của điều kia”

Note:

- Imassa [nt.gen.sg of ima] = của điều này

- Uppādā [m. abl. sg. of uppāda) = bởi sự sinh khởi, do sự sinh khởi

- Imass’ uppādā  = imassa uppādā [Possessor Relation = Liên hệ sở thuộc]  = do sự sinh khởi của điều này

- Idaṃ (nt.nom. sg. of ima) =  điều này

- Uppajjati [3rd, sg. of ud +√pad +ya + ti] = sinh khởi, được sinh ra

- Idaṃ  uppajjati [Active Subject Relation = Quan Hệ Chủ Từ trong dạng Chủ Động] =  điều kia sinh khởi

- Uppādā  uppajjati [Causality Relation = Quan Hệ Nguyên Nhân] =… sinh khởi bởi/ do sự sinh khởi….

[gen. =genitive (sở thuộc cách); abl =ablative (xuất xứ cách)]

Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati

Mệnh đề thứ hai là tương tự như trên nhưng mang nghiã ngược lại. Tức là “khi điều này diệt [biến mất], điều kia diệt [biến mất]. Do sự diệt của điều này, điều kia biến mất” 

Note:

- Asati = na sati = nghĩa phủ định của sati ở trên

- Nirodhā  (m. abl. sg.of nirodha) = do sự diệt.

- Nirujjhati (3rd,sg .of ni+√rudh + ya)=được phá hủy, biết mất, diệt.

Đoạn văn Pāḷi trên được tìm thấy trong bài kinh“dutiya-ariyasāvaka-sutta”, thuộc phẩm “gahapativagga” của Samyuṭṭanikāya. Nội dung trình bày về sự thực duyên khởi (paticasamuppada) hay tuỳ thuộc phát sanh:

Trích một đoạn:

 ‘imasmiṃ sati idaṃ hoti, imass’uppādā idaṃ uppajjati. Avijjāya sati saṅkhārā honti; saṅkhāresu sati viññāṇaṃ hoti; viññāṇe sati nāmarūpaṃ hoti; nāmarūpe sati saḷāyatanaṃ hoti; saḷāyatane sati phasso hoti; phasse sati vedanā hoti; vedanāya sati taṇhā hoti; taṇhāya sati upādānaṃ hoti; upādāne sati bhavo hoti; bhave sati jāti hoti; jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko samudayatī’ti (chiều thuận, chiều sinh khởi).

imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati. Avijjāya asati saṅkhārā na honti; saṅkhāresu asati viññāṇaṃ na hoti; viññāṇe asati nāmarūpaṃ na hoti; nāmarūpe asati saḷāyatanaṃ na hoti … pe … jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko nirujjhatī’ti (chiều ngược, chiều diệt).

Hy vọng cư sĩ thấy “sati”“hoti”  trong đoạn kinh văn trên mang ngữ nghĩa như thế nào rồi. Vậy “sati” ở đây được dịch theo hiện tại phân từ, có nghĩa là “đang hiện hữu, đang có, đang là” chứ không phải là “niệm” theo nghĩa thông thường. “Hoti” cũng nghĩa như vậy. Cả hai “sati”“hoti” nằm trong thế tương lập quan hệ xác định (Xin lỗi cư sĩ, tại chỗ này tôi tự giới hạn không bàn đến hai phạm trù “có, không” vì nó phức tạp, cần một bài viết dài dòng hơn. Lại nữa, cái sâu sắc, tế vi, trẩn mật từ nguyên bổn Pāḷi mà không một chuyển ngữ nào có thể nói được chính là từ “sati”“hoti”. Tại sao vậy? Cái đang hiện hữu, đang là, là nghĩa động, trong lúc dịch là có, “có cái này thì có cái kia” hoặc “cái này có thì cái kia có”  lại là nghĩa tĩnh? Thì làm sao nói được “cái hiện hữu ấy đang sinh khởi!mà hành giả minh sát tuệ nào cũng đang hiện quán?)

Còn chữ “being” mà triết gia Heidegger và Bùi Giáng nói tới, nó không đơn giản là “động từ là” mà lại nói tới “thực tại đang là”, là cái “hữu thể”  đang vận hành, đang diễn tiến qua “thời thể” như đã được nêu ở trên. “Cái là, cái đang là - seiend, étant, being”  thật sự không phải dễ hiểu đối với các triết gia Tây phương kể từ thời Platon. Chữ “là”  là quá hiển nhiên, ai cũng biết, ai cũng quen, ai cũng thừa hiểu “là” là thế nào rồi, nhưng Heidegger tuyên bố ngay rằng sự việc không phải minh bạch dễ dàng như vậy đâu:“Trong thời đại của chúng ta hiện nay, chúng ta có trả lời được câu hỏi về ý nghĩa mà chúng ta hiểu thực sự về chữ là?” (cf. Sein und Zeit, p.1: “Haben wir heute eine Antwort auf die Frage nach dem, was wir mit dem Wort “seiend” eigentlich meinen?”).  

“Cái là, cái đang là” chính là hoa nở, chim hót; là sự sống, là “sinh thể của mọi tồn thể”. Là “cái là”, là “cái đang là” của mọi hữu tồn duyên khởi sinh diệt.

2- Về tâm cùng tu với tuệ:

Nguyên văn Việt dịch cụm từ này được tìm thấy trong kinh Đại Bát Niết-bàn của Nikāya: “Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định cùng tu với giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với định đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”.

Giới thì ai cũng hiểu rồi nhưng định đây phải là chánh định như lập ngôn của đức Phật để so sánh nó khác xa với định của Bà-la-môn giáo, ấy là “ly dục, ly ác pháp” (Đức Đại Bồ-tát đã từ bỏ hai tầng định cao nhất là Vô sở hữu xú và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Vậy thì chánh định là định không dính mắc, không chấp thủ dù an trú tầng thiền nào. Rồi sử dụng định ấy (thường là cận hành định) để minh sát ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi - được gọi là cùng tu với tuệ. Còn tâm cùng tu với tuệ là muốn nói cái tâm đã đã yên lặng mọi tham ưu do chánh định mà có (kinh gọi là bát giải thoát tâm) để cùng tu với tuệ thì giải thoát hoàn toàn mọi lậu hoặc. Nói cách khác, giải thoát tâm là giải thoát phiền não chướng, giải thoát tuệ là giải thoát sở tri chướng.

3- Về pháp hữu vi:

Trong Pāḷi, từ Saṅkhāra có nơi thì dịch là “hữu vi”, có nơi dịch là “hành”, đều đúng cả nhưng mà tuỳ nội dung chuyên chở của nó.

3.1- Saṅkhāra dịch là hành, được hiểu là tạo tác các nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp bất động làm nên thức tái sanh vào tứ ác đạo, người bất hạnh, người hữu phúc, trời Dục giới, trời Sắc giới và trời Vô sắc giới. Saṅkhāra – hành - này được dùng trong thập nhị duyên khởi: Vô minh, hành, thức...

3.2- Saṅkhāra dịch là hữu vi, hàm chỉ các pháp được kết hợp, được cấu tạo, được làm nên. Hữu vi này cũng có nhiều dạng: Một, thế giới vật chất từ hạt cát đến sơn hà nhật nguyệt, sum la vạn tượng được kết hợp bởi các yếu tố, đơn vị vật chất đều được gọi là hữu vi. Hai, thế giới tinh thần được kết hợp bởi các yếu tố tâm lý, các trạng thái tâm lý diễn tiến một cách tự nhiên cũng được gọi là hữu vi.

Loại hữu vi 3.2 này bị chi phối bởi những định luật tự nhiên của vũ trụ (5 định luật - ngoại trừ định luật nghiệp báo) nên những hữu vi ấy đều vô thường, vô ngã nhưng không có dukkha.

3.3- Saṅkhāra dịch là hành, đây là loại hành do mình chế biến, đẻ ra; loại hành do tâm lý, tình cảm, sở thích, quan niệm chủ quan của mình tự tạo, hành ấy mới đưa đến dukkha. Hành này là hành trong  hành uẩn; và chính hành này mới đầy đủ tam tướng vô thường, vô ngã, dukkha. Nó biến đổi từ thương ra ghét, từ ghét ra hận rồi tạo ra các nghiệp.

Sabbe saṅkhāra aniccāti (tất cả hành là vô thường).

Sabbe saṅkhārādukkhāti (tất cả hành là khổ).

Còn: Sabbe dhammā-anattāti (tất cả pháp đều vô ngã). Pháp hữu vi, pháp vô vi đều vô ngã. Pháp vô vi không phải là pháp cấu tạo, kết hợp; cũng không phải là pháp do mình đẻ ra, chế biến ra nên pháp vô vi là vô ngã nhưng không vô thường, không khổ. Niết-bàn là pháp vô vi.

Tóm lại, khi nói các “pháp hữu vi” là muốn nói đến thế giới thiên nhiên, ngoại vật, cái gì cũng do cấu tạo, kết hợp, duyên sinh. Thời đại vật lý lượng tử ngày nay họ hiểu rất rõ điều này. Thế giới hữu vi này chúng vô thường, vô ngã nhưng không có dukkha. Khi nói các “pháp hành” là nói đến sự duyên khởi của căn trần thức; và chính ở đây, chúng vô thường, vô ngã và có cả dukkha. Đức Phật nhấn mạnh duyên khởi này, thấy rõ nó để chấm dứt dukkha chứ không bàn đến vũ trụ vạn hữu. Trùng trùng duyên khởi sum la vạn tượng như kinh Hoa Nghiêm thì đúng nhưng đức Phật chỉ nói “nắm lá trong tay thôi”, vừa đủ cho chúng sanh thoát khổ.

4- Về tư niệm thực:

Tư niệm thực là một trong 4 loại thức ăn. Do tôi thấy nhiều nơi giảng giải 4 loại thức ăn này không được rõ ràng hoặc chỉ nói cái phần ngọn hơi xa gốc nên tiện đây tôi ghi ra theo Abhidhamma.

- Đoàn thực (kabalikāra-āhāra): Thức ăn vo tròn. Thời đức Phật người ta ăn bằng bàn tay phải, sử dụng mấy ngón tay để vo tròn thức ăn nên gọi là đoàn thực (đoàn là tròn). Đây là thức ăn của cõi người dùng để nuôi dưỡng cơ thể, các tế bào sắc chất (hiện nay cách ăn này còn tồn tại ở Ấn Độ, Srī Laṅkā, Myanmar, Thái Lan...).

- Xúc thực (phassa-āhāra): Thức ăn của xúc giác. Do xúc mới có thọ. Khi mắt tiếp xúc với sắc liền phát sanh cảm thọ. Tương tự như vậy là tai, mũi, lưỡi, thân đối với thanh, hương, vị, xúc. Nhờ ăn “sắc thanh hương vị xúc” nên nó cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng các cảm thọ.

- Tư thực (cetanā-āhāra): Thức ăn của tư, tức là tư tâm sở (cetanā), là tư tác. Cái gì là thức ăn của tư tác? Chính là hành nghiệp: Nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp bất động. Chính vì thức ăn là tất cả mọi hành nghiệp này, chúng cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng chúng hữu tình tái sanh trong ba hữu: Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.

- Thức thực (viññāṇa-āhāra): Hàm chỉ thức ăn của thức tái sanh. Thức ăn của thức tái sanh là cận tử nghiệp (hoặc năng lực của nghiệp cuối cùng trước khi lâm tử). Sau khi “ăn” nghiệp ấy, nó lấy “chất bổ” ở đấy để nuôi dưỡng danh-sắc trong kiếp sống kế.

Tóm lại, cách nói gì, cách trả lời nào tôi cũng cảm giác chúng chỉ là những khái niệm vật vờ, dập dờn trên cái thực. Nhưng giới hạn muôn đời của ngôn ngữ là vậy, tôi cũng không biết làm gì khác hơn. 

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

 

 

 

 

 


Ý kiến bạn đọc
14/06/202121:55
Khách
Thưa Thầy,tu tuệ có phải là tu tuệ minh sát?Hay có phương pháp nào khác?Nếu tâm chưa yên lặng mọi tham ưu,có thể nào tu với tuệ không?
Kinh cảm ơn thầy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/03/2018(Xem: 10271)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 11389)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
05/03/2018(Xem: 5338)
Chân Thường Cuộc Sống Con Người! Thanh Quang Mỗi Con Người đều có Một Cuộc Sống- Cuộc Sống để Làm Người, nếu Con Người không có Ý Tâm- Cuộc Sống, Con người không thể Sống! Cuộc Sống Con Người, người ta thường phân ra Cuộc Sống Tinh thần Ý Tâm- Tâm Ý và Cuộc Sống Vật chất. Hai cuộc sống đó không thể tách rời nhau! Cái Thân Con Người ai cũng biết là duyên sinh giả hợp, tùy duyên theo luật sống Vô Thường-Sinh, Lão, Bệnh, Tử, không ai có thể sống hoài, sống mãi, vấn đề là Sống Với ai? Sống để làm gì? Sống như thế nào? Đời này và mai sau….
05/03/2018(Xem: 5631)
Giọt móc cỏ đầu phơi Tâm vô sắc tướng, có tạm bất an nhưng sẽ trở lại tự tánh không. Sắc thân, sinh diệt vô thường như mộng như ảo ảnh. An nhiên quán tự tại trong hiện tại không sợ hãi thất bại, đau khổ hay tham cầu mong thành công, hạnh phúc. Để tự nó đến đi tự nhiên rồi thì sẽ có đầy đủ cả hai. Để rồi đau khổ trong khoái lạc hay khoái lạc trong khổ đau? Vạn vật, có không,vô thường như sương ban mai đọng trên đầu những ngọn cỏ trước vô môn quan chỉ hiện hữu thoáng qua như những dòng chảytrong tâm tưởng. Tóm lại, AI (không có chủ từ ở những câu trên) đang bận tâm đây?
05/03/2018(Xem: 6724)
Lại có chút Ý Duyên-Duyên Ý với tác giả Lê Huy Trứ qua bài viết “Tâm Tạo-Lê Huy Trứ chúng tôi có một vài vấn đề trao đổi thêm về “Ý” -Con đường đạo pháp Phật Đà.(xem thêm:”Một vài Ý qua bài viết ”Thì cành Mai đã nở” của Minh Đức Triều Tâm Ảnh ) 1.Con Người là cuộc sống Ý Tâm -Tâm Ý -Ý Ngời. Con Người ai cũng có Tâm, Tâm là Cuộc sống Tâm Ý của Con Người. Con Người Sống là-Sống Ý Tâm,“-Ý làm chủ-Ý Tạo”. Tâm là tất cả Cuộc Sống Con Người Ý-cả Ý Vô Ngã Không-Ý Ánh sáng Ý và cả ý Phân biệt, ý khổ, ý nghiệp…., và cả Ý giải thoát…Tâm Không chưa phải là có Ý Giải thoát…..; Giải thoát là Ý Trung-Ý Huệ-Ý Giải thoát….
05/03/2018(Xem: 6999)
Khoa học kỷ thuật hiện đại đang dùng “Tâm ta” để sáng tạo robots với Artificial Intelligence (AI) trong những robots máy kia. Dĩ nhiên với suy nghĩ và hành động đơn phương độc đạo như người. Đây có thể là nhược điểm của nhân sinh mà chúng ta đã biết nhưng vẫn chưa cải tiến được. Điều mà chưa ai nghĩ tới đó là những bồ tát robots này chưa biết vô minh là gì cho nên chưa thật sự được con người viết super program và quantum software làm cho robots trở thành vô minh với tham sân si như là người phàm phu thật sự. Vì con người chưa đủ kiến thức, chưa đạt tới trình độ để biết language của vô minh, tham sân si và nhất là Tâm là cái gì để có thể nắm bắt rồi bỏ tất cả chúng nó vào não robots như là “AI” đó đã cố tâm hay vô tình, lầm lỡ bỏ những cái nghiệp quả báo hại đó vào thân xác của ta, rồi làm cho ta cứ ngỡ nhầm đó là “tâm ta ở trong thân ta.”
03/03/2018(Xem: 5171)
Não & Tâm Lê Huy Trứ Trong tựa đề, “Có phải Tâm là sản phẩm của Não hay Não nhận chỉ thị từ Tâm? ” Arjun Walia “Is Consciousness A Product Of The Brain Or Is The Brain The Receiver Of Consciousness?” Arjun Walia Arjun Walia diển tả, “Tâm là đường lối chúng ta cảm nhận và quan sát thế giới của chúng ta, chúng ta có thể nghĩ, chúng ta cố ý, cảm nhận, nhạy cảm hơn. Câu hỏi lớn nhất cho nhân tâm ngày nay “rằng thì là” (whether) nó đơn giản là một sản phẩm của não của chúng ta, hay nếu não nhận chỉ thị từ Tâm. Nếu Tâm không là đặc sản của não bộ thì nó có nghĩa là cái nhân thể vật chất không bị lệ thuộc vào chuỗi tâm thức, hoặc tự tâm.”
03/03/2018(Xem: 23285)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
03/03/2018(Xem: 7889)
Có những vần thơ gắn liền với mỗi người từ thuở biết viết, biết đọc cho đến lúc trưởng thành, đi theo suốt cuộc đời, và cũng có thể…cho đến hơi thở cuối cùng. Những vần thơ hay những câu thơ của những thi sĩ nổi danh mà mình đã thuộc nằm lòng, đã ghi nhớ tận đáy sâu của ký ức, và bỗng một lúc nào đó, ở một tình huống nào đó, một nhân duyên nào đó, tự chúng hiện ra một cách tự nhiên trong dòng tư tưởng, sự nghĩ suy, và bộc ra thành lời nói như là của chính mình và đôi lúc, chỉ nhớ đến vần thơ, câu thơ đó mà cũng không hề nhớ đến tác giả là ai nữa ! Các vần thơ, các câu thơ ấy thực sự đã gắn liền với mình, với đời sống mình, đôi lúc còn được xem như là kim chỉ Nam để giúp mình phản ứng, cư xử trước mọi hoàn cảnh, vui hay buồn, tốt hay xấu đang xảy ra.
27/02/2018(Xem: 5819)
Cái tự tánh của tâm viên luôn luôn thay đổi vô thường rất khó mà chuyên tâm nhất trí, chú tâm lâu dài. Kinh Pháp Cú mở đầu, “Tâm làm chủ, tâm tạo!” Hiểu theo nghĩa thông thường chấp ngã của phàm phu là tâm ta làm chủ mọi hành động của ta, tạo ra mọi tư duy và dẫn đến hành động của ta. Tâm phan duyên dẫn ta đi vòng vòng từ suy nghĩ này qua tư tưởng khác thay vì ta dễ dàng nắm bắt, hàng phục được cái tâm bất trị đó. Nhưng bồ tát không thấy tâm chủ, tâm tớ, tâm ta. Không có hành động và tư duy của người, không có suy tư và hành động của ta. Tôi nghĩ, ngay cả giữa Có và Không cũng không có sở trụ để chấp. Chẳng hạn, nhân sinh thường chấp ngã, lưu luyến sống trong quá khứ và lo lắng cho tương lai của chính mình. Chúng ta thường được giảng dạy là phải sống với hiện tại, ngay trong giờ phút này, nhưng ngay cả cái hiện tại chính giữa này cũng vô định xứ, thay đổi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567