Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năng lực và phán xét

09/03/201410:38(Xem: 7168)
Năng lực và phán xét

Thanissaro BhikkhuKhi Đức Phật nói cho Ngài A-nan biết rằng muốn tu tập toàn vẹn thì phài có được một vị thiện trí thức , Ngài đã không nói một điều gì làm an lòng và không khẳng định về lòng từ bi của người khác . Ngài nêu ra ba sự thật khó chịu – về sự mê lầm và sự tin cậy – những thứ đòi hỏi ta phải có năng lực phán xét rõ ràng . Sự thật thừ nhất là bạn không thể thực sự trông cậy vào bản thân để tự thấy hết sự mê lắm của mình . Khi mê lắm , bạn không biết mình mê lắm . Bạn cần phải có sự giúp đở đáng tin cậy từ bên ngoài để chỉ cho bạn thấy rõ .Vì vậy , khi Đức Phật khuyên những người Ca-lam ( Kalamas ) phải tự mình biết lấy , một trong những điều Ngài bảo họ phải tự biết minh là phải biết những hành vi của họ thường được các bậc hiền trí phán xét như thế nào .

Khi khuyên con trai của Ngài La-hầu-la thấy những hành động của mình đã gây ra điều tai hại thì Tôn-giả phải bàn luận với một vị thiện trí thức trong quá trình tu học . Có như thế Tôn-già mới biết làm thế nào để thành thật với những người khác-và với chính mình – về những lỗi lầm của mình và đồng thời tiếp cận với kiến thức của vị ấy . Tôn giả sẽ tự mình tiếp tục tái chuyển phát luân . Vì vậy , nếu thật sự muốn trở thành thiện xảo trong tư tưởng , lời nói và hành động của mình , bạn cần một vị thiện trí thức chỉ cho mình thấy những điều mình chưa biết rõ .Vì bạn rất khò nhìn thấy những điều này khi mình còn có những tập tính xấu , nên bổn phận chủ yếu của một vị thiện trí thức là chỉ rõ những lỗi lầm của bạn-vì chỉ khi nào biết rõ lỗi lầm bạn mới có thể sửa chửa chúng ; và chỉ khi nào sửa chửa chúng bạn mới có được lợi lạc từ tình yêu thương của vị thiện trí thức khi vạch rõ lỗi lầm cho mình .

“ Nếu thấy bậc hiền trí , chỉ lỗi và khiển trách . Như chỉ chỗ chôn vàng . Hãy thân cận người trí ! Thân cận người như vậy , Chỉ tốt hơn , không xấu ”

( Kinh Pháp Cú 76 HT . Thích Minh Châu dịch )
Thanissaro Bhikkhu 2

Khi đưa ra những lời phán xét về lỗi lầm của bạn , vị thiện trí thức giống như một người huấn luyện ngực đấn gặp Đức Phật . Ngài hỏi anh ta huấn luyện ngực của anh ta như thế nào ? Anh ta trả lời rằng , một số ngựa phù hợp với cách huấn luyện nhẹ nhàng , một số khác chỉ phù hợp với cách huấn luyện cứng rắn , một số khác thì kết hợp cà hai cáh huấn luyện ; nhưng nếu một con ngựa không phù hợp với cách huấn luyện nào cả thì anh ta sẽ giết con ngựa đó để giữ danh tiếng cho phương pháp huấn luyện đã được kế tục từ nhiều đời . Rồi người huấn luyện ngựa hỏi Đức Phật xem Ngài dạy dổ các đồ đệ của Ngài như thế nào . Đức Phật đáp : “ Cũng giống như vậy ”. Một số đồ đệ không phù hợp với những lời phê bình nhẹ nhàng , một số khác thì phải dùng lời phê bình cứng rắn và với một số khác phải dùng cả hai cách , nhưng nếu một đệ tử không đáp ứng được cách phê bình nào cả , Ngài sẽ giết đệ tử đó . Người huấn luyện ngựa sửng sốt khi nghe Phật nói vậy và chỉ hiểu được khi Ngài giải thích , Ngài nói “ giết ” là ngụ ý gì : Ngài sẽ không tiếp tục dạy dỗ đồ đệ đó nữa , như vậy có nghĩa là đã giết chết cơ hội tiến bộ của người đó trong việc tu tập .

Do đó , điều kiện tiên quyết trong việc duy trì với một vị thiện trí thức là ta phải sẵn sàng chấp nhận những lời chỉ trích của người đó , cả những lời nhẹ nhàng lẫn những lời gay gắt . Vì vậy mà Đức Phật bảo các môn đồ của mình đừng dạy dỗ ai vì tiền , vì người trả tiền là người quyết định chúng ta phải dạy họ điều gì và hiếm khi người ta trả tiền để nghe những lời chỉ trích họ cần phải nghe . Nhưng ngay cả khi người thầy dạy miễn phí , ta có thể gặp sự thật khó chịu thứ hai mà Đức Phật đã nói đến : Bạn không thểvới bất kỳ ai cũng mở lòng mình ra được. Năng lực phán xét của chúng ta có sức mạnh và bởi vì sức mạnh đó có thể tạo ra những lợi ích hay tai hại lâu dài , chúng ta phải chú trọng tới việc chọn thiện trí thức . Đừng để rơi vào cái bẩy dễ dàng của việc phê phán hoặc thiếu cân nhắc – phê phán dựa vào những tình cảm yêu ghét thiếu suy nghĩ , thiếu cân nhắc vì tin rằng đạo sư nào cũng là người hướng dẫn mang lại lợi ích cho ta . Thay vì làm như vậy , bạn hãy thận trọng trong việc chọn người mà bạn sẽ chấp nhận những phán xét của người đó làm của mình .

Dĩ nhiên điều này nghe có vẻ như là một nghịch lý . Bna5 cần một vị thầy giỏi để giúp bạn phát triển năng lực phán xét , nhưng bạn cán có những năng lực phán xét thật tốt để nhận ra được ai có thể là một vị thầy giỏi , và mặc dầu không có một phương pháp dễ dàng nào đề tránh được cái nghịch lý đó , nhưng nếu bạn chịu học hỏi từ những trải nghiệm của mình , để cho ta có thể biết mình tìm kiếm điều gì trên con đường tu học . Trên thực tế những lời dạy của Ngài về việc làm thế nào để chọn một vị thiện trí thức là một bài tập sơ khởi về sự nhận thức sâu sắc ; học cách làm thế nào để phát triển những năng lực phán xét thận trọng để cho cả bạn nữa có thề trở thành một thiện trí thức , trước hết là của chính mình và sau đó là của những người chung quanh mình .

Bước đầu tiên trong sự thận trọng là phải hiểu được phán xét một cách có ích nghĩa là gì . Bạn hãy đừng nghĩ đến một vị quan tòa đang ngồi ghế xử án và đang tuyên án có tội hay vô tội , mà hãy nghĩ đến một cô giáo dạy dương cầm dang ngồi lắng nghe bạn chơi đàn . Cô giáo không đưa ra lời phán xét cuối cùng về tiềm năng trở thành nghệ sĩ dương cầm của bạn . Thay vào đó cô giáo dang đánh giá một công việc đang tiếp diễn : lắng nghe ý định chơi đàn của bạn , lắng nghe bạn thực hiện ý định đó có thành công hay không . Nếu nó không thành công , cô giáo phải tìm hiểu xem vấn đề là do ý định hay việc thực hiện ý định đó , đưa ra những lời gợi ý có ích , và rồi để bạn thử dạo lại bản đàn . Cô giáo cứ tiếp tục như vậy cho đến khi cô hài lòng với việc đánh đàn của bạn . Nguyên tắc quan trọng là cô không bao giờ phán xét con người bạn . Thay vào đó cô giáo phải tập trung chú ý vào những hành động của bạn và luôn tìm hiếm những cách tốt hơn để nâng các hành động của bạn lên đạt những chuẩn mực mỗi ngày một cao hơn .

Trong lúc đó , bạn cũng học từ cô giáo cách đánh giá việc đánh đàn của mình ; suy nghĩ cẩn thận hơn về ý định của mình , lắng nghe kỹ hơn việc đánh đàn của mình . Phát triển những chuẩn mực cho những gì mang lại hậu quả và học cách suy nghĩ một cáh sáng tạo hầu tìm ra những cách thức để cải thiện việc đánh đàn của mình . Điều quan trọng hơn hết là bạn đang học được việc tập trung sự phán xét của mình vào việc đánh đàn của mình – bạn sẽ dể dàng nhận ra những thói quen xấu và từ bỏ chúng để thay vào đó những thói quen thiện xảo hơn .

Dĩ nhiên khi bạn là cô giáo đánh giá sự tiến bộ của bạn khi bạn chơi một bản nhạc nào đó thì đó cũng là một phần của sự tiến trình lâu dài hơn trong việc đánh giá xem mối quan hệ đã diễn ra tốt đẹp như thế nào . Cô giáo phải đánh giá , qua thời gian , xem thử bạn có học hỏi được gì nhờ sự hướng dẫn của cô ấy không và bạn cũng làm công việc đánh giá đó . Nhưng cũng như đã đề cập trước đây , cả hai người không ai phán xét giá trị của người kia . Cô giáo chỉ căn cứ vào sự tiến bộ của bạn để quyết định xem cô ấy có uổng công vô ích khi tiếp tục nhận bạn làm học tró . Bạn đánh giá xem những lời chỉ bảo của cô giáo thực sự giúp bạn chơi đàn tốt đến mức độ nào . Nếu một trong hai người quyết định chấm dứt mối quan hệ thì đó không thể là vì bạn là người học trò tồi , mà chỉ vì cô ấy không phải cô giáo phù hợp với bạn , hoặc là bạn không phải người học trò phù hợp với cô giáo ấy .Tương tự như vậy , khi bạn đánh giá một người có thể trổ thành đạo sư của bạn , bạn hãy nhớ rằng trong Phật giáo không có Sự Phán xét Cuôi cùng .

Khi tìm kiếm một vị thầy , bạn muốn có một vị thầy là người sẽ đánh giá những hành động của bạn như là một sự việc đang tiến triển và bạn cần phải áp dụng cùng một chuẩn mực như vậy khi đánh giá vị thầy đó . Và bạn không cố gắng đóng vai tró quá sức là người đánh giá người là đánh giá trị thực chất của người đó . Đơn giản là bạn chỉ đánh giá xem liệu những hành động của người thầy đó có phản ảnh được hay không các kỹ năng mà bạn muốn học hỏi và những phẩm chất tinh thần –vốn cũng là một loại hành động –mà bạn cũng sẽ tin tưởng nơi một người huấn luyện hay một người hướng dẫn . Nói cho cùng , cách duy nhất để chúng ta hiểu biết những người khác là thông qua những việc làm của họ và những phán xét của chúng ta cũng chỉ làm được như thế .

Tuy vậy , bởi vì chúng ta đang đánh giá xem liệu chúng ta có muốn tiếp thu những chuẩn mực của một người khác làm chuẩn mực của mình , chúng ta đánh giá những gì họ đang làm cũng không phải là một việc làm quá đáng . Và đó là để chúng ta tự bảo vệ mình , và để bảo vệ cho chúng ta , Đức Phật khuyên ta nên tìm kiếm hai phẩm chất ở nơi một người thầy : trí tuệ và tính chính trực . Để đánh giá được những phẩm chất này , chúng ta cần có thời gian và sự nhạy cảm , vì vậy mà Đức Phật cũng khuyên chúng ta nên sẵn sàng tiếp xúc nhiều với người đó và phải thật sự tinh mắt quan sát xem người đó hành động như thế nào .

Một thời khi vua Ba-tư-nặc đến viếng Đức Phật thì có một nhóm người tu khổ hạnh trần truồng đi ngang qua gần nơi đó . Nhà vua đến gần họ , quỳ xuống và đảnh lễ họ . Xong nhà vua quay lại nói với Đức Phật và hỏi Ngài : “ Những người khổ hạnh đó xứng đáng để đảnh lễ không ? ”. Ngài đáp rằng nhà vua chỉ có thể có câu trả lời khá thỏa đáng cho câu hỏi đó sau khi đã có thời gian tiếp xúc với họ và chỉ khi có con mắt quan sát thật tinh tế . Nhà vua ca ngợi sự thận trọng của Đức Phật và nói thêm rằng : “ Những người đó thực ra là những người do thám của con . Họ mới vừa đi trinh sát quân địch trở về và lát nửa thôi , sau khi tắm rửa và mặc quần áo vào họ sẽ trở về nhà vui vầy với gia đình họ ” Vì thế bạn không thể phán xét người khác chỉ bằng những ấn tượng ban đầu .

Người ta rất dễ giả bộ làm ra vẻ có trí tuệ . Trong quá khứ , người ta thường dễ có ấn tượng bởi những sự khổ hạnh cùng cực ; giờ đây , những quảng cáo cho những cuốn sách giáo lý và những khóa tu học cho ta thấy chúng ta bị hấp dẫn bởi những tiêu chuẩn bề nổi , nhưng nguyên tắc để gây ấn tượng cũng vẫn là một .Để khỏi mất thì giờ và sự cực khổ không cần thiết trong việc tìm kiếm . Đức Phật đã lưu ý bốn dấu hiệu cảnh báo ban đầu chỉ cho ta thấy những người thấy tiềm năng không có trí tuệ hay tính trung thực xứng đáng với sự tin tưởng của ta . Có hai dấu hiệu cảnh báo việc trí tuệ không đáng tin cậy : Dấu hiệu thứ nhất là khi người ta không tỏ lòng biết ơn đối với sự giúp đỡ mà họ nhận được – nhất là sự giúp đỡ của các đấng sinh thành hay các vị thầy của họ .

Người không có lòng biết ơn sẽ không biết quý trọng lòng tốt , không biết quý trọng nỗ lực nhằm giúp đỡ kẻ khác , và do đó chắc chằn chính họ cũng sẽ không nỗ lực để giúp đỡ người khác . Dấu hiệu thứ hai là họ không tôn trọng nguyên tắc nghiệp báo . Hoặc là họ chối bỏ quan niệm rằng chúng ta có sự tự do chọn lựa , hoặc là họ rao giảng rằng một người có thể xóa đi nghiệp xấu của một người khác đã gây ra trong quá khứ . Những người thuộc loại này có nhiều phần chắc là sẽ không nỗ lực để trở nên thiện xảo một cách chân thật và do đó họ là những người hướng dẫn không đáng tin cậy .

Về việc thiếu trung thực cũng có hai dấu hiệu cảnh báo : Dấu hiệu thứ nhất là khi người ta không cảm thấy xấu hổ khi nói một điều dối trá cố ý , như Đức Phật có lần nói : “ Một người như vậy có thể làm bất kỳ một điều xấu xa nào ”. Dấu hiệu thứ hai khi người ta không tranh luận một cách công bằng và thẳng thắn ; xuyên tạc đối thủ của họ , chộp ngay lấy những sơ hở nhỏ của phía bên kia đã nêu lên . Đức Phật nói những kẻ như vậy thì không đáng cho chúng ta nói chuyện với họ , và lại càng không đáng để ta tôn trọng họ làm thầy . Đối với những người không bộc lộ những dấu hiệu cảnh báo sớm , thì Đức Phật cho chúng ta lời khuyên làm thế nào để đánh giá trí tuệ và tính trung thực của họ trong những hành động của họ qua thời gian . Một câu hỏi Ngài muốn bạn tự hỏi là liệu những hành động của người thấy có bộc lộ phần nào tham , sân , si khiến cho người thấy đó tự cho là mình có kiến thức về moy65 điều thực sự mình không biết , hoặc bảo người khác làm một điều gì đó không mang lại lợi ích tốt nhất cho người đó .

Để thử trí tuệ của người thầy , Đức Phật khuyên nên để ý xem người thầy tiềm năng phản ứng như thế nào trước các câu hỏi về những gì là thiện xảo và những gì là bất thiện và xem người thầy đối phó với tai họa , nghịch cảnh như thế nào . Để tìm hiểu về tính trung thực , bạn hãy tìm đức hạnh của người đó trong những sinh hoạt hằng ngày , và sự trong sáng trong những giao tiếp của người thầy đó với những người khác . Người thầy đó có đưa ra những lý do bào chữa cho việc không tuân thủ các giới luật , hạ thấp các giới luật xuống ngang tầm với hành vi của mình hay nâng hành vi của mình lên ngang tầm với giới luật . Người thầy đó có lợi dụng người khác một cách gian dối không ? Nếu như vậy thì bạn nên tìm một người thầy khác .

Tuy nhiên , ở đây ta lại gặp sự thật khó chịu thứ ba của Đức Phật : Bạn không thể là người phán xét công bằng tính trung thực của người khác nếu chính bạn không có đượcchút trung thực nào. Đây chắc hẳn là sự thật khó chịu nhất trong tất cả , vì nó đòi hỏi bạn chấp nhận trách nhiệm cho những phán xét của mình . Nếu bạn muốn trắc nghiệm tiềm năng hướng dẫn tốt của người khác thì chính bạn cũng phải vuột qua được một bài trắc nghiệm . Ta lại thấy nó giống như việc lắng nghe một người đánh dương cầm . Bạn chơi dương cầm càng giỏi thì khả năng của bạn phán xét việc đánh đàn của người khác càng tốt .

May thay Đức Phật cũng đã hướng dẫn cách phát triển tính trung thực , và cách này không đòi hỏi bạn bắt đầu phải là tốt bẩm sinh . Nó chỉ đòi hỏi một mức độ tốt chân thật và chín chắn : phải yq thức rằng những hành động của ta tạo ra tất cả những sự thay đổi trong cuộc đời ta , vì vậy bạn phải rất thận trọng trong những hành động của mình ; thái độ sẵn sàng thú nhận những sai lầm của mình , với chính mình và với những ngưới khác ; và thái độ sẵn sàng rút kinh nghiệm từ những lỗi lầm của mình để bạn không tiếp tục phạm những sai lầm đó mãi . Như Đức Phật đã dạy La-hầu-la , trước khi bạn hành động bằng ý nghĩ , lời nói hay việc làm , bạn hãy nhìn vào những kết quả mà bạn nghĩ là hành động của bạn mang đến . Nếu hành động đó sẽ làm hại bạn hay một người nào khác thì bạn đừng làm . Nếu bạn không nhìn thấy trước sự tai hại nào hết , bạn hãy tiến hành làm .

Trong khi bạn đang hành động , hãy kiểm tra xem liệu bạn có đang gây ra những tai hại gì không nhìn thấy trước được không . Nếu có hãy dừng lại , nếu không hãy tiếp tục cho đến khi hoàn tất . Sau khi đã hoàn tất , bạn hãy nhìn vào những kết quả lâu dài của hành động của mình . Nếu nó gây ra một điều tai hại gì đó , bạn hãy thảo luận với một người nào đó trong quá trình tu học . Hãy biết xấu hổ với lỗi lầm của mình , và quyết định không tái phạm . Nếu hành động của bạn không gây tai hại gì cả , hãy lấy đó làm niềm vui và tiếp tục hành trì tu tập .

Khi bạn tu học theo cách này , bạn học được bốn nguyên tắc quan trọng về việc vận dụng khả năng phán xét một cách lành nạnh . Trước tiên bạn phán xét hành động của bạn , không phải là phán xét chính bạn . Nếu bạn biết tách rời cái ngã của mình ra khỏi những hành động của mình , thì bạn có khuynh hướng sẳn sàng chấp nhận lỗi lầm của mình hơn và ít chống chế hơn khi người khác vạch rõ cho bạn thấy những lỗi lầm của mình . Nguyên tắc này cũng áp dụng vào ý thức xấu hổ mà Đức phật khuyên bạn nên cảm thấy đối với những lỗi lầm của mình . Sự xấu hổ này không phải nhắm vào bạn mà là vào hành động của bạn – sự xấu hổ mà một người có lòng tự trọng cảm thấy khi người đó làm một việc gì khong xứng đáng với mình và không muốn tái diễn việc đó nữa . Sự xấu hổ loại này không làm cho mình suy yếu đi . Nó chỉ giúp bạn nhớ cái bài học mà mình đã học được mà thôi .

Việc này cũng liên quan tới nguyên tắc quan trọng thứ hai về việc phán xét lành mạnh . Nó đòi hỏi phài có chánh niệm theo ý nghĩa nguyên thủy của từ này ; giữ một điều gì đó trong tâm của mình . Chánh niệm loại này là tối cần thiết để phát triển năng lực phán xét của bạn , vì nó giúp bạn nhớ những bài học bạn đã học được qua năm tháng về những gì mang lại hiệu quả và những gì không mang lại hiệu quả . Bởi vì chúng ta thường cố gắng hết sức để quên những lỗi lầm của chúng ta , chúng ta cần phải luôn rèn luyện chánh niệm để ghi nhớ những bài học chúng ta đã học được về những lỗi lầm của mình để ta không mãi học đi học lại bài học đó mãi .

Đôi lúc bạn nghe định nghĩa chánh niệm là trạng thái không phán xét của tâm , nhưng đó không phải là cách Đức Phật giải thích về chánh niệm . Ngài thường so sánh chánh niệm với một người gác cổng theo ý nghĩa là nó giúp cho bạn phán xét việc gì nên làm và không nên làm .

Cũng giống như pháo đài biên cương của nhà vua có một người gác cổng – khôn ngoan , kinh nghiệm , thông minh – để không cho vào những người anh ta không biết , và chỉ cho vào những người anh ta biết , với mục đích bảo vệ những người ở trong và ngăn ngừa những người bên ngoài ; tương tự như thế , một môn đồ của các bậc vô thượng là người có chánh niệm , hết sức kỹ càng , thận trọng , ghi nhớ và có thể nhớ lại được cả những việc đã được làm hay đã được nói ra từ rất lâu . Lấy chánh niệm làm người gác cổng cho mình , môn đồ của các bậc vô thượng từ bỏ những gì thiện xảo , từ bỏ những gì đáng trách , nuôi dưỡng những gì vô tội , và giữ mình với sự trong sáng .

Tăng Chi Bộ kinh ( Anguttara Nikaya ) 7,63

Vì thế chánh niệm thực sự đóng góp một vai tró thiết yếu trong việc phát triển những năng lực phán xét của bạn . Khi bạn tiếp tục cố gắng áp dụng những bài học mình đã học được , bạn khám phá ra nguyên tắc thứ ba về việc phán xét lành mạnh : Đó là những bài học bạn rút ra được từ những lỗi lầm của mình sẽ tạo ra một sự thay đổi , nếu bạn hành động dựa theo những hành động đó . Phút giây hiện tại không nhất thiết khi nào cũng mới đến nỗi những bài học của ngày hôm qua sẽ trớ nên vô dụng hôm nay . Bạn có luôn tìm ra được những sự tinh tế mới trong việc áp dụng những bài học của quá khứ , nhưng những nét đại cương của việc tạo khổ và diệt khổ thì luôn luôn là như vậy .

Nguyên tắc thứ tư là bạn phải học cách làm sao để được lợi lạc từ những lời phán xét của người khác . Khi bạn đã chọn một người để giãi bày mọi chuyện , bạn muốn chấp nhận những lời khen chê của người đó , nhưng đồng thời bạn cũng muốn thử thách những lời khuyên bảo của người đó . Như Đức Phật đã từng nói với người dì của mình , bà Gotami , bạn có thể thử thách chân pháp bằng cách xem những kết quả pháp ấy mang lại khi đem áp dụng . Nếu nó đưc đến những phẩm chất đáng quý như là ly tham , khiêm tốn , hài lòng , tinh tấn , và thanh thản , đó là chân pháp . Người dạy cho bạn chân pháp này đã thỏa mãn ít nhất là sự thử thách có phải là một vị thiện trí thức không . Và bạn càng ngày càng học được nhiều hơn cách làm thế nào để phán xét chính mình .

Một vài người có thể không tán thành cho rằng chú tâm tìm kiếm những thiện trí thức có thể mang lại lợi lạc cho ta là một việc ích kỷ , và thật là độc ác khi ta thử thách người khác xem có đạt yêu cầu không . Nhưng nói như thế là chưa thấy được trọng tâm của vấn đề . Những lợi lạc mà bạn có được từ tình bạn như thế này không phải chỉ dành riêng bạn mà thôi ; và khi thử thách vị thiện trí thức của mình , bạn cũng đang thử thách chính mình nữa . khi đồng hóa với những phẩm chất của một vị thiện trí thức , bạn có thể thành người có tư cách thiện trí thức đối với người khác .

Trở lại với câu chuyện tập đánh đàn dương cầm với một người thầy dạy dương cầm giỏi . Khi bạn chơi đàn dương cầm giỏi hơn , bạn không phải là người duy nhất được thưởng thức ngón đàn của mình . Bạn càng giỏi thì bạn càng mang lại nhiều niềm vui hơn cho những người khác .Bạn hiểu càng rõ việc đánh đàn thì bạn có thể dạy tốt hơn cho những người thành tâm muốn học đàn với bạn . Đó là cách mà những dòng truyền thừa thuyết giáo thượng phẩm được thiết lập để mang lại lợi lạc cho thế gian .

Vì thế , khi bạn tìm kiếm một thiện trí thức , bạn đang tiếp cận một dòng truyền thừa những bậc thiện trí thức , vươn dài trở lại đến tận Đức Phật , và giúp mở rộng vào tương lai . Gia nhập vào dòng truyền thừa này có thể đòi hỏi phải chấp nhận trách nhiệm về những hành động của mình . Nhưng nếu sẵn sàng đương đầu vói thách thức , bạn biết chấp nhận năng lực phán xét này của con người – cái năng lực mà nếu không được rèn luyện có thể dễ dàng gây ra những điều tai hại – và rèn luyện nó cho mục đích thiện lành cao cả hơn .

Nguyên tác : The Power of Judgment, trích từ Tricycle Magazine, số mùa đông năm 2010 .

Thanissaro Bhikkhu là một tu sĩ Phật giáo Hoa Kỳ thuộc dòng truyền thừa Tòng Lâm Thái Lan , được coi là người có thẩm quyền nhất về ngôn ngữ và kinh điển Pali . Ngài hiện trụ trì tu viện Metta Forest ở ngoại ô San Diego, California , Hoa KỳThanissaro

Tạp chí Văn Hoá Phật Giáo 130

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/02/2019(Xem: 6041)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn chương và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
01/02/2019(Xem: 7707)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn (chương) và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
08/01/2019(Xem: 5675)
Kinh Duy Ma Cật, tôi đã có duyên được học với Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tại Phật Học Viện Báo Quốc - Huế, sau năm 1975 Tôi rất thích tư tưởng “Tịnh Phật Quốc Độ” của kinh này, khi nghe đức Phật gọi Bồ tát Bảo-tích mà dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh không dua nịnh sẽ sinh về cõi ấy. Thâm tâm là Tịnh Độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có đầy đủ công đức sẽ tái sinh về cõi ấy. Bồ đề tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ sinh vào cõi ấy.
04/01/2019(Xem: 83415)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
10/12/2018(Xem: 9901)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
06/12/2018(Xem: 4046)
Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi ? Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi ? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác ? Nói một cách khác, có thể nào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật ? Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn là đạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, l
02/12/2018(Xem: 8612)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
26/11/2018(Xem: 11334)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
04/09/2018(Xem: 7365)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
13/08/2018(Xem: 6515)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567