Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền

04/11/201308:53(Xem: 10694)
Bài 2: Zazen hay tư thế ngồi thiền

Duc_Phat_Thich_Ca (2)


Bài 2

Zazen hay tư thế ngồi thiền

Thiền sư Pierre Dôkan Crépon

Bài dưới đây được trích từ một quyển sách của thiền sư Pierre Dôkan Crépon mang tựa là " Nghệ thuật ngồi thiền"(L'Art du zazen,nxb Sully, 2012), trình bày một vài khía cạnh của phép luyện tập zazen và cũng là cốt lõi của cả học phái Tào Động (Sôtô). Đối với học phái này thì zazen hay tư thế ngồi thiền (nghĩa từ chương của chữ zazen là "thiền định bằng cách ngồi") không đơn giản chỉ là một phương pháp hay một công cụ giúp mang lại một thể dạng tâm thần đặc biệt nào cả, mà đúng hơn là một cách phát lộ trực tiếp bản thể giác ngộ của người tu tập. Quan điểm đó được diễn tả bằng một câu tóm lược như sau: "sự luyện tập và sự thực hiện cũng chỉ là Một thứ", thật vậy toàn bộ giáo huấn zazen cũng chỉ căn cứ vào ý nghĩa của câu ngắn gọn này.

Pierre Dokan

Pierre Dôkan Crépon luyện tập thiền định từ năm 20 tuồi, được chính thức thụ phong tỳ kheo với Thiền sư Taisen Deshimaru vào năm 1975. Sau đó ông xin thụ giáo với Thiền sư Shinzan Egawa Jenzi và cùng tu tập với vị này ở ngôi chùa Sojiji rất nổi tiếng ở Nhật. Ông từng là chủ bút tập san "Zen" của Hội Thiền Học Quốc Tế (AZI) từ năm 1977 đến 1987, và cũng từng là chủ tịch Tổng Hội Phật Giáo Pháp từ năm 2003 đến 2007, và hiện là đương kim chủ tịch Hội Thiền Học Quốc Tế.

Zazen cũng chỉ đơn giản có nghĩa là ngồi xuống

Zazen (Za là ngồi, Zen là thiền định) có nghĩa là ngồi lên một cái gối (tọa cụ), hai chân bắt tréo vào nhau, toàn thân giữ thẳng. Ngồi xuống là một việc thật quan trọng và phải làm trước nhất. Các chi tiết khác của tư thế ngồi - chẳng hạn như phải bắt tréo hai chân như thế nào, hai bàn tay phải đặt lên nhau như thế nào, mắt phải hướng ra trước mặt như thế nào, v.v... - tất cả phải thật chính xác, do đó tốt hơn hết là nhờ một người sành sỏi trực tiếp chỉ dẫn cho mình phải ngồi như thế nào cho thật đúng cách (thật ra thì nên học hỏi trực tiếp tại các trường dạy thiền hay dojo. Trong những buổi hành thiền tập thể sẽ có các vị sư giữ trọng trách theo dõi, nếu thấy mình ngồi sai thì sẽ yên lặng đến bên cạnh để giúp sửa lại tư thế. Thường cần phải để ra nhiều tháng hay nhiều năm mới tạo được một tư thế đúng cách và tự nhiên, bởi vì sau khi ngồi được một lúc thì chúng ta thường hay quên không còn chú ý đến tư thế ngồi của mình xem có còn giữ đúng hay không. Đây cũng là một cách phản ảnh bản chất nghiêm khắc, chính xác và quy củ của người Nhật). Ngày nay các trung tâm dạy thiền được thiết lập khắp nơi, nên việc này cũng không phải là quá khó (xin hiểu là tác giả viết cho những người đọc ở Pháp ngày nay). Zazen (tư thế ngồi thiền) biểu trưng cho sự Giác Ngộ của chính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni được lưu truyền và tiếp nối cho đến ngày nay, vì thế sự tiếp nối ấy mang tính cách thật quan trọng và nhất thiết không đơn giản chỉ là một phép luyện tập thiền định thông thường (ngồi xuống thật vững vàng, hai chân bắt tréo, toàn thân vươn lên, uy nghi và im lặng như một quả núi, tương tự như một vị Phật đang ngồi: nói cách khác là ngồi xuống như một vị Phật và để trở thành Phật). Học phái Tào Động (Sôtô) là một dòng thiền được hình thành ở Ấn Độ, được truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản và du nhập vào thế giới Tây Phương bắt đầu từ thế kỷ vừa qua. Zazen (thiền định bằng tư thế ngồi) không nhắm vào một sự thực hiện nào cả, có nghĩa là không tập trung tâm thức hướng vào một thứ gì cả, chẳng hạn như một vị thần linh, một câu man-tra (một câu tụng niệm mang tính cách thiêng liêng), một hình tượng, cũng không suy tư về một vấn đề nào cả, dù là cá nhân hay giáo lý. Đồng thời cũng không tìm cách khơi động hay ngăn chận một tư duy nào cả, cũng không cố gắng tạo ra một thể dạng tinh khiết hay một thể dạng tri thức đặc biệt nào cả. Chỉ cần ngồi xuống và giữ toàn thân trong một tư thế thật đúng. Dưới khía cạnh đó Zazen là một phép tu tập thật hết sức đơn giản, thế nhưng thật ra là hết sức thâm sâu, hướng sức sống của người hành thiền vào một bầu không gian thật rộng lớn.

Cứ để cho tư duy trôi đi một cách tự nhiên

Vị Thầy Keizan (Keizan Jokin, 1268-1325) có nói rằng điều cần phải ghi nhớ khi luyện tập zazen (Zazen Yojinki) là: "Trong khi ngồi thiền, phải gác sang một bên tất cả mọi chuyện và cứ để cho các thứ nối kết (association / sự liên kết giữa các tư duy đưa đến mọi thứ lo toan, mưu tính...)tự tan biến đi". Gác sang một bên tất cả mọi chuyện đang làm mình bận tâm và lo nghĩ tất nhiên không phải là chuyện dễ làm. Vì thế thật hết sức quan trọng phải luyện tập chung với nhiều người khác trong những nơi dành riêng cho việc hành thiền (thiền học chủ trương phải hành thiền chung với nhiều người trong một thiền đường trang nghiêm, với các nghi thức được quy định thật chi tiết và khắt khe. Ôm tọa cụ bước vào ngưỡng cửa thiền đường, nhìn lên bàn Phật để vái lạy cũng là một cách bước vào một thế giới khác, một khung cảnh khác mang lại cho mình một cuộc sống khác, giúp mình bỏ lại sau lưng những lo toan thế tục dễ dàng hơn. Ngồi xuống với nhiều người khác cũng là một cách nương tựa vào sức mạnh và bầu không khí nghiêm trang do tập thể tạo ra. Nếu không đủ sức cảm nhận được sự trợ lực đó thì cũng có thể nhìn vào những người ngồi chung quanh để bắt chước họ). Khung cảnh của thiền đường là một sự trợ lực không nhỏ, bởi vì hành thiền một mình ở nhà sẽ khó gác sang một bên những công việc riêng tư. Sự kiện "cứ để cho mọi sự lo toan tan biến đi" cũng có nghĩa là "để mọi thứ tư duy trôi đi". Tư duy luôn có xu hướng kết nối và níu kéo nhau không bao giờ ngưng nghỉ. Nếu cứ để cho các sự nối kết ấy tự tan biến, thì các tư duy ("nhẹ nhàng" hơn phát sinh từ sự vận hành đơn giản của tri thức)mới có thể hiện ra và biến đi và không lôi kéo mình tham gia vào sự tiếp diễn đó của chúng (không tham gia vào việc nối kết các tư duy làm phát sinh ra mọi thứ suy nghĩ, lo toan, mưu tính và các thứ xúc cảm khác). Nếu muốn cho sự nối kết (giữa các tư duy trong tâm thức)không thể xảy ra được thì không nên chú ý đến những gì cất chứa bên trong tư duy, không nên nghe lời chúng (tư duy cũng chỉ là tư duy, dù chúng có chuyển tải nội dung như thế nào thì cũng mặc. Nếu nhìn vào những gì chúng chuyển tải để "liên kết" chúng với nhau, thì tâm thức mình sẽ bị tràn ngập ngay bởi mọi thứ tính toán, lo nghĩ và xúc cảm đủ loại). Đức Phật có dạy rằng: "Nghe lời tư duy có nghĩa là lọt ra ngoài ngưỡng cửa". Không nên nghe lời tư duy là cách làm cho các sự nối kết phải tan biến đi, và đấy là cách giúp tư thế zazen của mình được vững vàng hơn (xao động thì ngồi không yên): và đấy cũng chính là cách giúp mình bước trở vào ngưỡng cửa để tìm về với thể dạng nguyên sinh của chính mình. Vị Thầy Keizan cũng đã từng nói rằng: "Zazen sẽ khiến cho mọi sự được nghỉ ngơi và luân lưu một cách tự nhiên, mở vào mười hướng của không gian" (không gian đối với một người bình dị có tám hướng, đối với một người tu tập có mười hướng gọi là mười phương Phật: trên đầu và dưới chân cũng là hai hướng khác của không gian, người hành thiền bắt tréo hai chân ngồi xuống, im lặng giữa không gian bao la, trống không và vô tận).

Không hướng vào những gì thuộc thế giới phàm tục

Người hành thiền luyện tập một điều gì đó mà chính họ cũng không sao nói ra được, và dù có tìm cách để bày tỏ điều ấy thì cũng không hiểu rằng mình có thấy triệt được hay không để mà nói lên điều ấy.

Luyện tập zazen cũng có nghĩa là quan tâm đến những gì không thuộc vào thế giới phàm tục. Điều đó không có nghĩa là hướng ra bên ngoài, trốn tránh hay tự tách rời mình ra khỏi thế giới này. Trái lại phải ý thức rằng việc tu tập của mình đang diễn ra ở giữa thế gian này và cả ở bên trong con tim của chính mình nữa, đấy là cách xem thân xác mình như một công cụ giúp mình tiếp cận với thế giới chung quanh. Vì thế luyện tập theo con đường zazen cũng là một cách đi ngược lại với những quan niệm thường tình của thế giới phàm tục. Người hành thiền không hướng vào một mục đích nào, cũng không chờ đợi một sự thăng tiến tuần tự nào. Người hành thiền luyện tập một điều gì đó mà chính họ cũng không sao nói ra được, và dù có tìm cách bày tỏ điều ấy thì cũng không hiểu rằng mình có thấy triệt được hay không để mà nói lên điều ấy. Phép luyện tập đó không liên quan đến bất cứ một giá trị nào của thế giới phàm tục, tất cả mọi sự phận biệt (những sự diễn đạt, các quy ước...)đều bị xóa bỏ: đàn ông, đàn bà, trẻ đẹp, già nua, quyền cao, chức trọng..., tất cả sẽ không còn mang một giá trị nào nữa đối với một người khi đã ngồi xuống với tư thế zazen. Nếu có ai cảm thấy hãnh diện về việc luyện tập của mình cũng như thành tích lâu dài mà mình đã thực hiện được trước đây thì có nghĩa là người ấy đã hoàn toàn sai lầm. Nếu mặt phải (của một sự vật)có sự phân biệt, thì mặt trái (của nó)sẽ không có một sự phân biệt nào cả. Mặt trái thuộc bên ngoài thế giới phàm tục và người tu tập phải hướng vào chính mặt trái ấy (mỗi khi chúng ta nhìn vào những người chung quanh, dù họ là người thế tục hay tu hành, và nếu thấy họ mải mê và phờ phạc chạy theo những giá trị phàm tục thì mình có cảm thấy khiếp sợ hay không? Hay mình cũng nôn nóng tìm đủ mọi cách để tham gia với họ?). Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải thật cố gắng, kiên nhẫn và bền chí. Thế nhưng mặt khác nhờ vào chính sự kiên trì ấy chúng ta cũng sẽ tận hưởng được một sự vui sướng nào đó thoát ra từ một sự thỏa mãn thật sâu xa. Tuy nhiên không phải vì thế mà mình không thụ hưởng được những gì của thế giới phàm tục (tuy tâm thức thoát tục thế nhưng hai chân mình vẫn có thể tiếp tục bước đi giữa thế gian này, không khác gì những kẻ khác), thế nhưng không được để cho những thứ ấy tàn phá mình (không được dừng chân lại với những giá trị phàm tục), nếu không sẽ khó tránh khỏi nguy cơ đánh mất những gì thiết thực (lạc hướng trên con đường mà mình đang bước).

Thân xác vươn thẳng cũng có nghĩa là tâm thức an bình

Luyện tập zazen là chọn một phép ngồi với hai chân bắt tréo vào nhau và giữ lưng thật thẳng. Đấy là tư thế thích nghi nhất giúp mình ngồi im, giữ sự yên lặng, hít thở dễ dàng và tránh được mọi sự sự xao lãng. Ở Ấn Độ vào thời kỳ của Đức Phật cũng đã từng có nhiều người tìm kiếm Con Đường (sự tu tập và giác ngộ)bằng các tư thế thật kỳ lạ: chẳng hạn như đứng một chân, hai tay đưa ngược lên trời, hoặc bắt tréo một chân ngược ra sau gáy (ý nói đến các phép hành xác của các tín đồ đạo Ja-in vào thời kỳ của Đức Phật). Ngay cả ngày nay người ta vẫn còn thấy các người sâdhu (Hán dịch là ni-kiền tử, là những người xa lánh thế tục, để râu tóc mọc dài, trát tro lên người nhằm biểu trưng cho kiếp sống tạm bợ và luân hồi của mình, họ sống bằng cách du thực, và chỉ lo luyện tập du-già và tự hành xác...)thực thi các tư thế ấy. Vào các thời kỳ khi Thiên Chúa Giáo mới bắt đầu phát triển ở Trung Đông và cả ở Tây Phương, cũng từng có các tu sĩ khổ hạnh chuyên luyện tập các tư thế đặc biệt nhằm giúp mình tìm kiếm Con Đường. Chẳng hạn như các "tu sĩ sa mạc" (moines du désert / monks of the desert / một giáo phái Thiên Chúa Giáo)di chuyển bằng cách bò bốn chân, hoặc các tu sĩ stylite (stylite monks / một giáo phái khác của Thiên Chúa Giáo, chủ trương phái sống hành xác trên đầu một cây cột), hoặc các tu sĩ người Ái-nhĩ-lan (Ireland) bắt tréo hai tay vào nhau thành hình chữ thập và nhảy ùm xuống nước băng dá. Đức Thích-ca Mâu-ni bác bỏ mọi hình thức khổ hạnh đại loại như thế, Ngài nói rằng "tất cả mọi hình thức khổ hạnh đều không mang lại sự một an bình và thư thái nào cả cho con người". Ngài dạy rằng chỉ cần ngồi xuống, lưng thẳng và hai chân bắt tréo vào nhau. Trong một bài kinh Ngài có giải thích tại sao phải làm như thế: "Nếu chú tâm giữ cho thân xác ngay thẳng thì con tim và tâm thức cũng theo đó mà trở nên ngay thẳng. Với tư thế ngồi im và thân người thật thẳng con tim sẽ không còn cảm thấy đớn đau". Nói đến con tim thì cũng là cách nói đến tâm thức. Khi con tim mang những tâm ý đúng đắn (những xúc cảm chân thật và tinh khiết), thì tư duy cũng ngưng nghỉ và an trú trong thực tại (tâm thức không tìm cách giàn xếp chuyện này cũng không lo tính chuyện khác). Nếu con tim bị tán loạn (tức là chạy theo tư duy)hoặc thân xác nhúc nhích hay lưng không thẳng, thì phải ý thức ngay và sửa lại cho đúng. Một khi đã tập trung thật sâu vào tư thế zazen, thì sự tập trung ấy sẽ hóa giải được các tư duy tán loạn và mọi sự xao lãng. Nếu kiên trì luyện tập theo phương pháp ấy thì chúng ta cũng sẽ phát huy được một thể dạng tập trung tâm thần thật bình lặng và vô biên.

Bures-Sur-Yvette, 03.11. 13

Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2019(Xem: 13903)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 19597)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
27/05/2019(Xem: 5907)
Tác giả William Edelglass là tân giám đốc về nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Học Barre và là giáo sư triết học và môi trường tại Trường Cao Đẳng Marlboro College tại tiểu bang Vermont. Công việc của ông đã đưa ông tới Dharamsala, Ấn Độ, nơi ông dạy cả triết học Tây Phương cho chư tăng Tây Tạng tại Học Viện Institute of Buddhist Dialectics và triết lý Phật Giáo cho các sinh viên đại học Mỹ về chương trình nghiên cứu Tây Tạng. Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
02/05/2019(Xem: 7286)
Vì thương xót hết thảy hữu tình phải chịu phiền não, đau thương do tham ái mà bị trôi dài trong bể khổ sinh tử luân hồi, Đức Phật hiện ra ở đời để lại cho thế gian vô số pháp môn tu tập, tùy theo căn cơ, sở trường và hoàn cảnh của mỗi chúng sanh mà chọn lựa pháp hành thích ứng để tu tập nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Chư pháp của Thế Tôn được ví như những thang thuốc tùy bệnh mà bốc thuốc. Trong số đó, Tuệ quán vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, qua đó hành giả quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly của tất cả pháp, là pháp “tối thượng” và vi diệu ‘nhất’ vì nếu hành giả thường xuyên hành trì sẽ ‘chứng đạt’ Tuệ Giải Thoát, vị ấy sẽ đoạn tận mọi kiết sử, không còn khổ đau, phạm hạnh đã thành, chánh trì giải thoát, là bậc A-La-Hán.
24/04/2019(Xem: 4494)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết. Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.
01/03/2019(Xem: 6005)
Triết Học Phật Giáo Ấn Độ, Hayes Richard, Thích Nguyên Tạng (dịch), Phật giáo (PG) là một thành tố quan trọng, hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ, vài thế kỷ trước Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở miền Bắc Ấn Độ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết, là phát xuất trực tiếp từ những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm (Siddhartha Gautama), thường được tôn xưng bằng danh hiệu là Đức Phật.
16/02/2019(Xem: 7058)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn chương và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
01/02/2019(Xem: 8762)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn (chương) và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
08/01/2019(Xem: 6625)
Kinh Duy Ma Cật, tôi đã có duyên được học với Hòa thượng Thích Đôn Hậu, tại Phật Học Viện Báo Quốc - Huế, sau năm 1975 Tôi rất thích tư tưởng “Tịnh Phật Quốc Độ” của kinh này, khi nghe đức Phật gọi Bồ tát Bảo-tích mà dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật chúng sinh không dua nịnh sẽ sinh về cõi ấy. Thâm tâm là Tịnh Độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh nào có đầy đủ công đức sẽ tái sinh về cõi ấy. Bồ đề tâm là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ sinh vào cõi ấy.
04/01/2019(Xem: 111623)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]